Tạ ơn trời! CHỮ ĐỘNG

Tạ ơn Trời! Mỗi sớm mai thức dậy, ta có một ngày mới để yêu thương

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

TÂM TÌNH SUY NIỆM


ĐỖ TUYẾN – BÙI THỊ THÚY
VÀ NHỮNG BÀI SUY NIỆM SƯU TẦM

Photobucket

Đỗ Tuyến - Bùi Thị Thúy hiện đang định cư tại Mỹ.
Với những bài sưu tầm Tuyến-Thúy gởi cho tôi.
Xin được đăng lên đây để chúng ta cùng chia sẻ và suy niệm
Trân trong giới thiệu
                                                     
Nguyễn Văn Xuân
Kinh thưa Quý vị, đặc biệt các bạn trẻ,                    
Trong số những người thân của chúng ta                             
Không phải tất cả đều đã có máy điện toán (vi tính) hoặc có dùng email, hoặc đã có thể nhận được những tài liệu này...
Vì vậy, xin hãy ủng hộ chúng tôi bằng cách phổ biến tài liệu này bằng email hoặc in ra, photocopy và gởi cho người thân của Quý vị.Đặc biệt xin gởi cho các Linh mục chưa có sử dụng internet
        Xin chân thành cám ơn        
           Lm Lê Văn Quảng (Psy.Dconggiaovietnam@gmail.com)                                                      www.conggiaovietnam.net

      CHÚA VIẾNG THĂM
Người Việt Nam thường có câu: “lời chào cao hơn mân cỗ”. Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.
          Người ta kể rằng thời Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường có thói quen đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương binh trong thời nội chiến.
Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng Thống tới phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:
        - Tôi có thể làm chút việc gì giúp anh được không?
Có lẽ không nhận ra người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:
         -Xin ông làm ơn viết lá thư cho mẹ tôi.
Người ta trao bút giấy cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên được.
        “Mẹ rất yêu dấu của con!  Con bị thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia.  Có lẽ con sẽ không bao giờ bình phục được nữa.  Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con.  Xin mẹ hôn hai em Mary và John dùm con.  Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai em.”
Nói tới đây, người thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho anh ta và thêm:  “Viết thay cho con trai của bà.  Ký tên:  Abraham Lincoln.”
          Bệnh nhân xin cho xem lại những gì người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra người đã tới thăm mình.  Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:
         -Ông thật là Tổng Thống của Hoa Kỳ ư?
Abraham Lincoln trả lời cách âu yếm.
         -Phải chính tôi đây.
Tổng Thống hỏi thêm xem mình còn có thể giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng.  Gương mặt anh bỗng chốc bừng lên, anh sung sướng nói:
         -Xin Tổng Thống cầm tay tôi, và giúp tôi đi đến cùng.
        Trong căn phòng bé nhỏ, ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.
Lời Chúa hôm nay cũng gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giê-su đã dành cho gia đình ở Betania.  Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được phục vụ.        Con đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa không muốn trở thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói với Matta: “Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo”.
         Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Đôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.
        Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen
                                                   Lm.Jos Tạ duy Tuyền
        MỘT BÀI HỌC QUÍ GIÁ                                                      
     TỪ TIÊN TRI NATHAN VÀ VUA THÁNH DAVIT
          Con người là bất toàn: Man is imperfect. Điều đó ai cũng biết. Chính      vì thế, con người rất dễ cảm thông với những lỗi lầm của con người. Nhưng cũng có những lỗi lầm, con người cảm thấy rất khó cảm thông, đó là khi con người không còn biết nhận lỗi mà cứ đi tìm mọi cách thế để né tránh, quanh co, tìm mọi lý do để ngụy biện cho những điều sai lỗi của mình. Và đó chính là lý do đã khiến cho nhiều người không còn sự kính trọng và tin tưởng vào những người mà trước đây họ đã dành một sự quí trọng đặc biệt.
         Có lẽ chính địa vị và quyền uy đã khiến cho nhiều người không đủ can đảm để chấp nhận một sự sai lỗi. Nhưng chúng ta đã lầm, người có địa vị càng cao và quyền uy càng lớn nhưng biết khiêm tốn trong cách sống, càng khiến cho nhiều người cảm phục và quí trọng họ hơn. Và đây là một trường hợp cụ thể: hãy nhìn vua thánh Đavít và hãy học ở đó một bài học quí giá về lỗi lầm. Chính sự khiêm tốn chấp nhận lỗi lầm để sửa đổi và cải thiện đã khiến cho vua Đavít ngày càng trở nên chói sáng. Và bây giờ, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện vua thánh Đavit.  
         Một buổi chiều kia, một buổi chiều đẹp trời, Đavit chổi dậy và đi bách bộ trên sân thượng, ông thấy một người đàn bà đang tắm. Người đàn bà ấy rất đẹp và ông đã bị quyến rũ. 
        Sau giấc ngủ, Đavit đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, việc đó không có gì sai trái cả, nhưng chính sự chán nản, chính khi tâm hồn xuống dốc cho thấy sức mạnh của sự dữ trong mỗi con người chúng ta. Sự dữ là một phần của con người. Nó nằm sẵn trong chúng ta và chỉ cần một sự khơi nhẹ cũng đủ để làm nó lộ diện. 
        Từ ngày hôm đó, Đavit  âm thầm cho người điều tra về người đàn bà ấy và được biết bà ta là Bathseba, con gái Eliam, vợ của Uria. Đavit đã cho người đi đưa bà ta về và Đavit đã ngủ với bà ta. 
Một con người tốt lành như Đavit nhưng chỉ trong phút chốc đã phạm tội. Thật vậy, chúng ta mang những kho tàng quí báu của chúng ta trong những chiếc bình sành, chỉ cần một chút bất cẩn là có thể làm tiêu tan ngay. Blessed Claude de la Colombiere nói: “Tôi cảm thấy trong tôi khả năng của mọi tội”. 
         Quả thế, trong bản tính con người yếu hèn của chúng ta, nhất là trong những lúc buồn phiền, chán nản, thất vọng hay những lúc chúng ta bất hòa, giận dữ người khác, chúng ta có thể liều mình dám làm bất cứ điều gì ngay cả những tội tầy đình mà chúng ta không bao giờ dám nghĩ đến trước đây. Đó cũng là trường hợp đã xảy ra ngay tại cung điện Roma. Một người lính vệ binh của Đức giáo hoàng vì quá tức giận trong phút chốc đã rút súng bắn chết ngay cả hai vợ chồng của viên đại tá, vị chỉ huy trưởng của anh ta, và sau đó anh ta cũng dùng ngay chính khẩu súng đó để tự sát. 
        Quả thật, may mắn cho chúng ta nếu chúng ta biết nhận thức ra được những điều đó. Ít ra nó cũng ngăn ngừa chúng ta khỏi bị khủng hoảng bỡi những điều xâu mà chúng ta thấy nơi những người khác. Chúng ta không thể biết được lúc nào nó có thể xảy ra cho chúng ta.
        Tiến trình của sự dữ luôn là một tiến trình chậm, nhưng nó vẫn luôn hoạt động. Nó thường bắt đầu với một yếu điểm vô tội. Đó có thể là một sự tò mò, một hiếu kỳ của con người mà ai trong chúng ta cũng đều có. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, cái yếu điểm  ấy đã phát triển một cách nhanh chóng, trở thành một tội ác, một kẻ giết người ở cuối câu chuyện của Davit: URIA ĐÃ BỊ GIẾT CHẾT BỠI MƯU ĐỒ CỦA ĐAVIT.
        Đây là cách thế mà sự dữ thường phát triển trong mỗi con người chúng ta. Nó bắt đầu không có gì là quan trọng, không có gì đáng quan tâm. Nó quá tầm thường đến độ không ai để ý, chẳng hạn như tôi nói láo, đó có thể là một điều nhỏ. Nhưng đã một lần tôi nói láo, tôi phải nói một lần nữa để người ta tin. Không bao lâu tôi đã rơi vào tình trạng một kẻ chuyên môn nói láo. Lấy một ví dụ: một người muốn lập công với cấp trên của mình để có được một chỗ đứng quan trọng trong cộng đồng như lòng mong ước. Một hôm anh đến thưa với cấp trên rằng: “Anh Nguyễn văn A đang âm mưu tìm cách tẩy chay ngài để chiếm địa vị của Ngài”.                                            
        Thế là anh được hỏi: Anh biết Nguyễn văn A đang âm mưu thế nào ? Vì đã trót nói láo nên phải nói láo luôn để họ tin:                                               
 - Anh ta đã triệu tập những người chống đối ngài.                                  
- Ở đâu ? Ở đường Charles, số nhà 100, nhà ông David Nguyễn.- Gồm những ai ?
- Gồm ông Peter Trịnh, bà Anna Lê , ông Joseph Nguyễn..
- Vào ngày nào ? - Ngày 26/11/97 lúc 10:00am, vào chính lúc ngài cho ra mắt tập sách của ngài.
- Khi nào thì họ ra tay hành động ? - Vào tháng sau. Họ tính làm gấp nên chúng ta phải hành động trước họ, càng sớm càng tốt, không được chậm trễ. Tuyệt đối là ngài phải giữ bí mật, nếu để lộ bí mật thì nguy to cho ngài và cho cả chúng tôi nữa vì tất cả dân chúng đều nghe theo lời anh ta. 
Và nếu vị lãnh đạo ấy thiếu khôn ngoan, sáng suốt thì chắc chắn anh Nguyễn văn A sẽ phải đền tội đủ. Có ai biết cho rằng đó chỉ là một sự giàu óc tưởng tượng của những con người chuyên môn nói láo.                    
         Cũng vậy, một người không đi học nhưng muốn khoe khoang là một người có học, bị người bạn hỏi thăm: Anh đang làm gì ? Có còn đi học không ? Vì không dám trả lời rằng không, nên nói có. Thế rồi, người bạn hỏi tiếp: Anh đang theo học trường nào ? Đã lỡ nói láo nên phải nói láo luôn: trường U of M ( university of Minnesota ) –Học môn gì ? –Computer science –Lấy mấy lớp ? Lấy 4 lớp …và cứ như thế đến vô tận. 
        Một ví dụ khác là ly dị. Ly dị không phải là mới xảy ra bây giờ. Nó đã có lâu đời trong lịch sử. Nó có thể bắt đầu với cảm giác chán chường. Có lẽ người chồng có cảm giác sợ hãi mình trở nên già và đã phóng sự sợ ấy lên người vợ. Sự lo âu sợ hãi của anh làm anh ta buồn chán và bắt đầu mất đi sự thích thú với vợ mình. 
         Những cảm  giác đó làm việc trong vô thức để rồi dần dần khiến anh xa dần vợ anh. Anh ta bắt đầu thích đi tìm một người đàn bà khác, một cái gì mới mẻ hơn. Vì thế, khi có dịp may đến, dĩ nhiên anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội để làm quen, để gây mối tình thân thiện, hay để nối lại mối tình xưa nghĩa cũ đối với những bạn bè ngày xưa. Chẳng hạn, vào một ngày cuối tuần nào đó, có thể tình cờ gặp lại một người bạn cũ, chắc chắn anh sẽ không bỏ lỡ cơ hội tốt để ngỏ ý mời cô bạn đi ăn tối và cùng nhau đi xem phim cuối tuần. Và dĩ nhiên cô bạn cũng sẽ vui vẻ đáp lại lời mời của anh. Từ đó, hai người có dịp gặp gỡ trở lại và dần dần họ trở thành thân mật với nhau hơn trước. Sau một thời gian, họ thấy rằng họ đang trên con đường nguy hiểm, nhưng họ nói với nhau: “Chúng ta sẽ xếp đặt. Chúng ta sẽ có giới hạn. Chúng ta chỉ là những người bạn tốt của nhau”. Họ thật là điên cuồng bỡi lẽ lý luận của con tim thì khác với lý luận của lý trí và cảm xúc của con người thì khó có thể giới hạn được. Dĩ nhiên là ở cuối chặng đường, họ sẽ tìm cách để có thể đi đến quyết định ly dị hôn nhân của họ để họ có thể lấy nhau và chung sống với nhau.     
        Thật vậy, sự dữ bắt đầu với một yếu tố hết sức tầm thường, tầm thường đến độ không một ai có thể ngờ được nên chẳng mấy ai đề phòng. Như mọi sự sống, sự dữ bắt đầu với một hạt giống, nó đâm chồi đâm rễ và mọc lên. Hãy xem trong câu chuyện Đavit, sự dữ tiến hành thế nào ? Người đàn bà mang thai và đưa tin cho Đavit. Đavit sau khi nghe biết sự việc, đã tìm cách che giấu tội mình. Một điều mà ông ta hết sức quan tâm đó là cứu bộ mặt của ông. Ông ta không muốn nhận tội mình và vì thế ngày càng lún sâu vào vũng lầy của sự dữ. Từ nay mọi quyền lực của ngai vàng đều được xử dụng cho mục đích nầy là: bảo vệ danh dự của ông. Không có lý do nào để Đavit ra lệnh cho Uria rời bỏ chiến trường về hoàng cung và rồi cho về nhà để ngủ với vợ trong lúc chiến trường đang gay cấn. Nhưng không may cho Đavit, Uria đã không về nhà nhưng ngủ lại hoàng cung, và như thế mưu đồ của Đavit thất bại. Đavit thấy mình thất bại, vội vàng xoay sang thủ đoạn khác. Ông tìm cách để cho Uria được đẩy ra ngoài địa đầu chiến tuyến, chỗ nguy hiểm nhất để Uria bị giết chết. Lần nầy thì mưu đồ của ông đã thành công. Ông đã làm công việc đó để cứu sỉ diện của ông. Nhưng điều đó không đúng chút nào lại còn mang thêm một trọng tội khác. 
        Sau khi Đavit đã được sứ giả cho biết Uria đã bị giết chết, Đavit đã đổi ngay thái độ. Ông không còn hay nổi trận lôi đình nữa, cũng không còn hay gắt gỏng, cau có, nóng giận, khó tính và lo sợ nữa. Ông xem ra trầm tĩnh hơn, bỡi lẽ bây giờ ông có thể lấy Bathseba làm thiếp mà không còn phải sợ mất sỉ diện nữa.
        Chính việc nầy, chính việc che dấu tội của Đavit còn xấu hơn gấp trăm ngàn lần  tội mà ông đã phạm với bà Bathseba. Nếu ông đã xưng thú, đã nhận lỗi, điều đó không đến nỗi quá xấu. Tội ác tầy đình bắt đầu khi ông cố gắng che dấu tội mình.  
         Vì thế, Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến nói cho ông dụ ngôn nầy:
Trong một thành kia có hai người, một người giàu và một người nghèo. Người giàu thì có vô số chiên lừa, còn người nghèo chỉ có một con làm gia sản. Một ngày kia,  người giàu, có khách đến thăm. Ông  không muốn giết chiên mình để đãi khách mà đi bắt con chiên của người nghèo giết đi mà đãi khách. Đavit nghe đến đó thì nỗi trận lôi đình lên và phán bảo: “Người đó đáng chết!” Lương tâm của Đavit tốt đối với việc quan tâm đến người khác. Ông ta thấy rõ ràng rằng người giàu đã làm một việc bất công và ông không chấp nhận điều đó. Nhưng ông đâu có biết rằng chính ông cũng đã làm như vậy. Đavit đã sống trong sự yên hàn bấp bênh của lương tâm bằng việc dấn thân cho một thế giới bên ngoài.
         Trong khi lên án tố cáo người khác, con người không còn năng lực nào còn lại để đối diện và nhận ra lỗi mình. Sự nhiệt thành cũa Đavit đối với công việc bên ngoài là một sự chạy trốn. Cái tội mà Đavit lên án nơi người giàu là một tội đáng phạt. Tuy nhiên, lòng đam mê công lý của Đavit cho thấy sự bất công quá đáng nơi chính ông ta. Sự sốt sắng cải thiện và sự dấn thân phục vụ để tác động những người khác quả thật có thể đó là một sự che lấp tinh vi của một sự sợ sệt và tội lỗi cá nhân. 
         Các nhà tâm lý học cho chúng ta thấy rằng qua những đam mê hoạt động của chúng ta, chúng ta cố gắng dập tắt cái cảm giác sợ sệt và tội lỗi để làm chúng ta trở nên có giá trị hơn dưới con mắt người khác bằng những công việc hoạt động. Chính những hoạt động đó có thể làm chúng ta trở thành những con người hết sức hấp dẫn mà rất ít người có thể nhận ra có một sự chạy trốn nào đó ở đàng sau bộ mặt hấp dẫn đó. Và đây chính là trường hợp của Đavit. Nhưng Thiên Chúa có muôn ngàn cách thế để cảnh tĩnh những con người Ngài muốn tuyển chọn.  Ngài đã sai tiên tri Nathan đến cảnh cáo Đavit: “Chính ngươi là người nhà giàu mà ngươi đã lên án đó!” Từ bấy giờ, Đavit bắt đầu mở bừng mắt ra và ông đã thú nhận những tội lỗi mình. 
        Ở đây chúng ta thấy rõ vai trò ngôn sứ của tiên tri Nathan. Ngài thật sự là một con người can đảm. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhà vua là “mất đầu.” Nhưng không phải vì thế mà ngài không dám lên tiếng. Ngài không tìm lý do để khước từ. Ngài không tìm cách thế để ngụy biện, nhưng ngài đã tìm cách để gióng lên tiếng nói, để cảnh báo cho vua Đavít biết lỗi lầm của mình. Và Đavít đã nhận lỗi và sửa lỗi. 
         Gióng lên tiếng nói để giúp người khác, ngay cả những vị lãnh đạo trong giáo hội nhận biết lỗi lầm của họ, không phải là chống đối họ và chống đối giáo hội, cũng không phải là ghét họ và ghét giáo hội, nhưng trái lại là thương họ và thương giáo hội, vì chúng ta còn biết quan tâm đến họ và quan tâm đến giáo hội. 
         Thương có nhiều cách thương. Có những bà mẹ yêu thương con cái một cách vụng về. Con cái muốn gì được nấy, và lại còn bao che những thói hư tật xấu của con đến nỗi người cha không cách nào có thể biết được những sai lỗi của con cái để giáo dục và sửa dạy chúng. Và rồi một ngày nào đó, chúng sẽ bỏ bê công việc học hành để sống cuộc đời ăn chơi hưởng thụ, chẳng cần đến tương lai thì mọi sự đã quá trễ. 
         Thương yêu bố mẹ cũng thế. Có những người vì thương yêu bố mẹ nên không bao giờ dám nói gì động đến bố mẹ ngay cả khi biết rõ bố mẹ có những điều sai lỗi. Đó cũng là một cách thương. Nhưng những cách thương như thế thì tốt hay xấu? Chúng ta cần phải trưởng thành trong cách sống, trong sự hiểu biết, cũng như trong sự phán đoán. Yêu không phải là bao che, là dung túng. Nhưng yêu là giúp họ nhận thức, là giúp họ thăng tiến, là giúp họ nhận biết cái sai của họ để họ cải thiện và vươn lên. Chính vì thế, những người gióng lên tiếng nói để giúp người khác thấy cái sai lỗi của mình để họ cải thiện như tiên tri Nathan đã làm đối với vua Đavít, họ là những con người can đảm và trưởng thành trong cách sống và cách yêu. Họ sống cách sống của con người trưởng thành, và yêu cách yêu của con người hiểu biết. Yêu là quan tâm, là giúp người mình yêu thăng tiến. Họ không chống đối ai, cũng không chống đối giáo hội.    Họ phân biệt rất rõ ràng: CON NGƯỜI và HÀNH ĐỘNG. Mọi người đều là anh em một nhà ngay cả những người không cùng chí hướng. Họ không chống đối con người, nhưng họ chống đối hành động sai lầm của con người ấy. Họ chống đối hành động thiếu trong sáng của con người ấy. Họ chống đối hành động thiếu ngay thật của con người ấy. Họ chống đối sự quanh co, gian dối của con người ấy. Họ chống đối sự ích kỷ, hèn nhát của con người ấy. Họ chống đối sự tham quyền cố vị của con người ấy. Họ chống đối sự thiếu trách nhiệm của con người ấy. Và một khi người ấy biết nhìn nhận hành động sai trái của mình và cải thiện, họ đâu có gì để chống đối, vì họ không chống đối con người mà chỉ chống đối những hành vi sai trái cố chấp  của họ để giúp họ cải thiện và vươn lên. Vì thế, thay vì trách họ, thay vì ghét họ, chúng ta phải biết ơn họ, chúng ta phải yêu thương họ, vì nhơ có họ mà chúng ta mới cải tiến, và cũng nhờ có họ mà GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI mới có những vị lãnh đạo xứng đáng hơn, tốt đẹp hơn. 
         Nếu không có tiên tri Nathan anh dũng, có lẽ vua Đavít vẫn còn ngụp lặn trong vũng lầy của tội lỗi, và vương quốc của ngài đã không có ngày huy hoàng hạnh phúc của thời vàng son đó.  
Lời Chúa là một cái gì sống động và hữu hiệu. Lời đó được nói với Đavit qua một người khác. Đavit cần một người trung gian để đưa ông đến việc chấp nhận và xưng thú tội mình: “Tôi đã phạm tội chống lại Giavê”. 
        Bao lâu chúng ta còn che dấu lỗi mình, bấy lâu chúng ta còn cảm thấy mình không được đón nhận. Khi chúng ta thật sự chấp nhận sự đón nhận của Thiên Chúa và tin rằng sự đón nhận của Ngài là vô giới hạn, bấy giờ chúng ta mới có thể xưng thú tội mình. Việc chúng ta dấu tội là một dấu chỉ cho thấy chúng ta không hoàn toàn tin vào tình yêu Thiên Chúa. Nó nói lên một sự thiếu kém lòng tin.  
         Thỉnh thoảng, chúng ta gặp những người không biết chấp nhận lỗi mình, không bao giờ biết nói lên lời xin lỗi, họ là những con người đáng được thương hại vì họ là những con người đau khổ hơn cả bỡi sự bất an của tâm hồn họ. Sự an bình không tìm được trong sự che dấu nhưng trong sự tha thứ. Bấy giờ sự tha thứ mặc khải cho họ một chiều sâu mới trong tình yêu Thiên Chúa. Trong giây phút tha thứ, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài lớn lao hơn những lầm lỗi của chúng ta và sự chấp nhận của Ngài là vô điều kiện. Sự tha thứ tạo nên một mối giây liên hệ mới giữa con người và Thiên Chúa. Chỉ có những con người có sự can đảm dám xưng thú tội mình mới có thể thật sự chấp nhận chính mình và tìm thấy được sự an bình mà thế gian không thể ban cho và lấy đi được.  
                                                    Lm Lê Văn Quảng Psy.D.            
       CAY ĐẮNG NHƯNG LẠI TỐT ĐẸP?
         Trong quyển sách nhan đề: Này tôi tin (This I believe) có một loạt bài khảo luận của một số tác giả nổi tiếng. Họ mô tả lại những thời kỳ trong cuộc đời của họ đã tác động trên họ một cách sâu xa. Chẳng hạn, James du Pont thuộc công ty Du Pont kể lại sự kiện xảy đến cho ông khi ông vừa mới 7 tuổi đầu như sau: Một đêm, đang say ngủ, chợt James thức giấc, cậu bé nhìn thấy mẹ đang khóc lớn tiếng. Đây là lần đầu tiên cậu thấy mẹ khóc, James mô tả biến cố này như sau;
"Giọng bố tôi trầm xuống lộ vẻ bối rối trong khi ông cố gắng an ủi mẹ tôi – lúc đó cả hai người đều sầu buồn nên quên mất tôi đang hiện diện ở bên cạnh. Tôi nghe lỏm được những gì các ngài đang nói".
Ông nói thêm:
"Khi vấn đề của các ngài đã được giải quyết và bị chìm vào quên lãng lâu rồi, thì "biến cố" quan trọng tôi khám phá được vào đêm khuya ấy và mãi mãi còn lưu lại trong tâm trí tôi. Khám phá ấy được ghi nhận bằng những lời an ủi của bố tôi; "Đời sống đâu phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng đâu! Nhiều lúc nó rất là khó khăn và cay đắng."
        Chắc chắn chúng ta đều có thể mường tượng được cảnh chú bé 7 tuổi đang nằm trên giường lắng nghe mẹ chú khóc. Chúng ta cũng có thể nhớ lại đã có lần ta nghe mẹ mình
        khóc, và điều ấy đã gây ấn tượng mạnh trên chúng ta như thế nào, và điều ấy đã khiến chúng ta, có lẽ lần đầu tiên trong đời, ý thức được cuộc đời không chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, đôi khi nó rất khó khăn và khổ đau. Từ đó chúng ta hiểu được những lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm ngày hôm nay.
"Ai muốn đến với Ta, thì hãy quên mình, vác thập giá mình rồi theo Ta". Nói cách khác, khổ đau sầu muộn có thể ví như những cơn bão táp, lụt lội xảy đến. Chúng ta là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tiếp tục biểu lộ một điều kỳ diệu khi Ngài nói:
"Ai muốn cứu lấy mạng mình thì sẽ bị mất nó, nhưng ai liều mất cuộc sống vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được nó". Nói cách khác, đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đớn đau xảy đến trên chúng ta mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh được khổ đau phiền muộn nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồn mang sức sống thay vì chết chóc, nhờ đó chúng ta trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
        Xin hãy nghe một minh chứng qua trường hợp Eugene Oneill: Mãi đến tuổi 25, ông vẫn còn là một người thất bại, cuộc sống thì hầu như không mục đích, không qui củ, không định hướng. Thế rồi một hôm, ông lâm trọng bệnh và được đem vào bệnh viện. Nhờ thời gian nằm viện, ông đã có dịp may làm được điều trước đó ông chưa bao giờ làm được; ông mới có dịp may suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Nhờ đó ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông.
        Cuối cùng Eugene O'Neill bình phục, ông chọn nghề viết kịch và bắt đầu trở thành người canh tân nền kịch nghệ Hoa Kỳ. Tất cả điều này xảy ra chính là do ông đã biết biến đổi phiền muộn khổ đau thành phương cách xây dựng tích cực, đã biến chúng thành sức sống cho ông.
        Trường hợp Golda Meir cũng thế. Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn tiềm tàng, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm
để nhờ đó… mang lại lợi ích cho mình hơn." Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
        Cuối cùng, chúng ta hãy xét đến trường hợp của Oscar Wilde. Ở đỉnh cao nghề nghiệp viết lách, ông đã xác tín sứ mạng luân lý của mình. Sau khi ở tù ra, ông không còn chấp nhận viết những vở hài kịch phù phiếm nữa, không dành trí tưởng tượng cho ba chuyện lăng nhăng lít nhít nữa. Ông đã sáng tác những câu thơ tuyệt vời như:
"Đau khổ chính là mảnh đất thánh", hay: "Đức Kitô đâu có thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã vỡ nát".
         Oscar Wilde đã dùng Kinh nghiệm nhục nhã của mình như một dịp để tăng triển tốt đẹp hơn. Giống như tinh thần bài Phúc Âm hôm nay ông đã biết biến đổi Kinh nghiệm ấy thành nguồn ban sức sống chứ không để nó thành nguồn chết chóc huỷ diệt.
        Những câu chuyện về Eugene O'Neill, Golda Meir và Oscar Wilde cho ta thấy rõ ràng điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những khổ đau phiền muộn xảy đến cho chúng ta, mà chính là cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu ta từ chối không chấp nhận khổ đau phiền muộn, không chịu cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Đức Giêsu can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống giống như trường hợp Eugene O'Neill, Golda và Oscar Wilde.
        Để tóm tắt, chúng ta hãy nhớ lại:
- Như cậu bé bảy tuổi trong câu chuyện mở đầu, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ khám phá ra rằng đời sống không phải chỉ toàn là vừa ý và hoa hồng, nó thường là khó khăn và cay đắng.
        Nhưng chúng ta cũng khám phá ra một điều khác nữa. Sớm muộn gì chúng ta cũng thấy rằng phiền muộn và khổ đau không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc, hủy diệt.
        Chúng ta cảm tạ Chúa Giêsu và Phúc Âm vì phiền muộn và khổ đau có thể biến thành nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau phiền muộn để biến đổi chúng ta thành người tốt hơn và biết thông hiểu kẻ khác hơn. Khổ đau và phiền muộn có thể mở mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được cuộc sống phong phú tốt đẹp, hơn là chúng ta đã từng dám mơ ước.
***
        Thi sĩ Robert Browming Hamiltom tóm tắt tinh thần bài Phúc Âm hôm nay bằng những lời như sau:
"Tôi bước đi một dặm đường với Nữ Thần Lạc Thú, Nàng ve vuốt tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan hơn tí nào qua những điều nàng nói.
"Tôi lại bước đi một dặm với Nữ Thần đau khổ, Nàng chả nói với tôi một lời, Nhưng tôi lại học được biết bao điều khi nàng bước đi bên cạnh tôi…"
       (Trích trong Along the Road - Dọc đường) Lm. Mark Link, S.J.)  

ĐỒNG TIỀN.
          Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được (Mt. 6:24).
1.Đồng Đô La
        Đất nước Hoa Kỳ văn minh và giầu mạnh vì người dân biết phó thác niềm tin trong Chúa. Chúng ta có thể nhìn thấy nơi tất cả mọi đồng đô la lớn hay nhỏ: từ 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và cả đồng cắc: 1 xu, 5 xu,10 xu và 25 xu đều có in chữ In God We Trust. Mỗi đồng tiền đều mang theo sứ mệnh nhắc nhở con người tin tưởng vào Thiên Chúa. Tiền bạc của cải mà chúng ta đang dùng là của Ceasar, chúng ta sẽ phải nộp thuế và phải đầu tư vào cuộc sống trần gian này. Nhưng tiền bạc của cải đó do chính Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta qua nhiều cách thế. Chúng ta cần vận dụng mọi khả năng Chúa ban để kiếm tìm, sở hữu tiền bạc và tiêu dùng. Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hãy tìm kiếm Nước Chúa trước, rồi mọi sự Ngài sẽ ban thêm cho.
        Thượng Đế ban cho mỗi người một khả năng. Có người nhận lãnh nhiều và có kẻ nhận ít. Mỗi người tùy theo khả năng của mình mà sinh lợi. Phần thưởng dành cho những ai biết tận dụng mọi khả năng của mình để sinh lợi cho mình và xã hội. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta về sự trao ban một cách nhưng không của ông chủ: Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ (Mt 25:15-18). Chúa ban cho chúng ta những nén bạc lớn hay nhỏ khác nhau, điều quan trọng là chúng ta phải có bổn phận trân qúi và làm lời theo khả năng của mình. Tất cả các nén bạc lớn hay nhỏ đều là hồng ân Chúa ban.
2. Hoán Đổi Tiền tệ
        Đổi tiền. Khi chúng ta đi du lịch vào một nước nào, chúng ta phải đổi ngân tệ của nước đó để tiêu dùng. Giá trị của đồng tiền khác nhau nơi mỗi nước. Khi chúng ta đến Âu Châu, tiền đô la đổi qua tiền Euro hay Bảng Anh, giá trị chênh lệch. Có những thứ tiền giấy chỉ có thể xài trong nước mình vì không có giá trị quỹ kim bảo chứng quốc tế. Thí dụ: Đồng Bạc Việt Nam , chúng ta chỉ có thể dùng trong nước, nó không có giá trị quốc tế. Câu truyện xảy ra khi tôi đi vượt biên, sau những ngày lênh đênh ròng rã trên biển, rồi vào tới đất liền ở một quốc gia khác. Đồng tiền Việt hết giá trị. Trên xe bus về trại tỵ nạn, trong túi của tôi còn ít tiền Việt. Tôi không biết làm gì với số tiền này. Giữ nó làm kỷ niệm thôi. Thấy người lơ xe hút thuốc. Tôi thèm thuốc lá. Tôi muốn mua thuốc lắm, tôi có tiền nhưng không thể mua.Tôi đưa đồng tiền Việt Nam cho anh ta như là kỷ niệm và xin điếu thuốc. Một sự trao đổi cảm thông. Đồng ý với nhau, đây là một kinh nghiệm đầu tiên về giá trị và sự khác biệt hối đoái về tiền tệ.
        Đã hơn 25 năm qua rồi, dưới thời bao cấp và quá độ ở Việt Nam , tôi đã là nạn nhân của vài đồng tiền giấy Đô-la đỏ (Military Payment Certificate). Số là ngày ấy, tôi có một số sách vở cũ do người bạn để lại trong tủ nơi nhà xứ. Trong những trang sách có kẹp mấy tờ Đô-la đỏ. Thực ra tôi cũng chẳng biết giá trị thế nào, nhưng cũng giữ đó như là vật kỷ niệm. Thế rồi sự cố xảy ra ở nhà xứ, các cán bộ công an vào lục xoát đồ đặc và sách vở, họ phát hiện những tờ Đô-la đỏ trong sách cũ. Thế là họ ghi vào biên bản tàng trữ tiền bạc của chế độ cũ. Sau đó tôi bị mời ra trụ sở công an để làm việc. Tôi bị hạch hỏi về sự lưu giữ sách vở và những đồng tiền bất hợp pháp này. Thực ra tới thời đó tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy tờ Đô-la xanh là thế nào. Còn những tờ Đô-la đỏ, tôi đâu có biết nó từ đâu và liên hệ thế nào với chế độ, nhưng sau khi điều tra luận tội, tôi được mời vào nhà khám và tù cả năm trời. Đồng tiền nên tội, những tờ Đô-la đỏ!
3. Kiếm tiền
        Có những người may mắn làm ăn phát tài phát đạt. Có người làm một, lời mười. Có người bỏ vốn một, sinh lợi một trăm. Họ làm giầu một cách công minh và chính trực. Họ đáng được hưởng những phần phúc Chua ban. Họ dùng hết những khả năng Chúa ban để sinh lợi. Họ chí thú làm ăn, biết chắt chiu tiết kiệm, biết thu, biết chi và họ trở nên khá giả. Chúng ta vẫn thường đọc kinh Lạy Cha, xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Chúa không bao giờ từ chối lời cầu xin của chúng ta. Chỉ rằng chúng ta không nhận biết hồng ân Chúa mà thôi. Có nhiều khi chúng ta than phiền rằng Chúa không công bằng, vì khi có người ăn không hết, người lần không ra. Đúng thế, Chúa không trao ban cho mọi người số vốn khả năng như nhau. Chúa cho người nhiều kẻ ít nhưng ai cũng được ban cho tràn ly. Ly lớn cũng đầy và ly nhỏ cũng đầy. Chúng ta thật hạnh phúc khi biết dùng khả năng và vốn liếng Chúa ban để sinh lợi. Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc là thế. Biết đủ là đủ. Đừng so sánh với người khác.
        Trong cuộc đời còn có những người không muốn bỏ công sức tận dụng khả năng để làm việc, nhưng lại muốn hưởng lợi nhiều và nhanh chóng. Họ đã tìm ra những phương kế gian dối, lừa lọc và áp chế để làm giầu như in tiền giả, ăn trộm ăn cướp, lừa đảo gian dối. Nhiều người còn muốn làm giầu nhanh chóng như bài bạc, cá độ, buôn bán đồ quốc cấm, rửa tiền, chúng ta biết các việc làm bất chính này sẽ không có hậu quả tốt. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô nhắc nhở: Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé (1Tm. 6:10).Có những người dùng quyền thế sức mạnh để chiếm đoạt của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng.    Những nguồn phú túc của thiên nhiên được ban chung cho con người, nhưng đôi khi bị những người quyền thế gian tham chiếm đoạt làm của riêng. Của cải thiên nhiên như mỏ kim cương, vàng bạc, dầu khí và các nguồn lương thực khác đều là tài nguyên chung phải được sinh lợi cho mọi người. Lại có những người làm giầu trên mồ hôi và xương máu của người khác. Thật là bất công! Cuối cùng họ cũng đi đến cùng đường như ông Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ (Mt. 27:5).
4.Sức Mạnh Đồng Tiền
         Chúng ta biết đồng tiền nào cũng có hai mặt. Khi chúng ta biết xử dụng nó đúng nơi đúng chỗ, tiền sẽ giúp chúng ta đạt được những thành quả tuyệt vời. Nếu chúng ta để đồng tiền làm chủ điều khiển đời ta, đồng tiền sẽ đưa dắt chúng ta vào những hiểm nguy cuộc sống. Đồng tiền chỉ là phương tiện giúp chúng ta đạt cùng đích của cuộc đời. Người ta nói rằng tiền là tiên là phật. Nhiều người nghĩ đồng tiền vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Đúng một phần thôi, qua sự giao lưu và chạy chọt, đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Tiền có thể giúp giải quyết một số vấn đề cuộc sống. Biết rằng tiền bạc tự nó không tốt và không xấu. Thái độ của con người dùng tiền mới là quan trọng. Tiền có thể giúp chúng ta đạt những ước mơ nhưng nhớ rằng không phải có tiền là chúng ta sẽ có hạnh phúc thật.
        Chúng ta biết có rất nhiều cách kiếm tiền và của cải trần gian. Có những người nai lưng làm việc cực nhọc, cầy sâu cuốc bẫm và nắng nôi cực nhọc suốt ngày mới kiếm đủ chút tiền nuôi sống gia đình. Có những người buôn thúng bán bưng, thức khuya dậy sớm, tần tảo quang gánh mỗi ngày cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi con. Có những người làm lụng chân tay với mức lương rẻ mạt chưa đủ tiêu dùng. Có những người mong muốn tìm một việc làm độ thân mà cũng không ai mướn. Có những người lang thang tìm kiếm những của dừ thừa nơi đống rác dơ bẩn và hôi thối để bán kiếm tiền nuôi sống. Những người này thật khổ sở, nhưng bù lại họ có niềm vui vì biết dùng công sức và khả năng Chúa ban để sinh lợi cho cuộc sống. Họ không ăn bám vào ai, không lường gạt và sống thanh bần. Chúng ta biết có nhiều người làm cả đời cũng không có đồng dư. Không phải họ lười biếng nhưng vì hoàn cảnh éo le, mùa màng thiên tai, con cái bệnh hoạn, làm ăn thất bại và có khi bị thiên hạ lừa đảo. Chúng ta cứ nhìn các ông bà cụ xếp hàng chờ những món qùa hàng tháng của các Hội Từ Thiện. Đôi khi chúng ta không hiểu nổi tại sao họ nghèo đến thế. Cả một đời chắt chiu, về già không có mái nhà để ở, manh chiếu để nằm và bát cơm để ăn hằng ngày.
5. Sử Dụng Đồng Tiền
        Ở đời, chúng ta dùng tiền để trao đổi và mua bán. Thuận mua vừa bán và tiền trao cháo múc. Đồng tiền chỉ có giá trị khi được chính thức ngân hàng nhà nước sở tại phát hành. Tiền này có giá trị trong nước và mọi người dân trong nước có thể dùng nó để mua bán và trao đổi cho nhau như là một tín dụng. Kinh tế đánh giá trị đồng tiền của mỗi quốc gia. Có những đồng tiền như đô la, Euro, Anh, Úc , Canada … được công nhận và trao đổi quốc tế. Nhưng có những đồng tiền không có giá trị bảo chứng bên ngoài, không thể trao đổi. Nhưng tiền bạc của cải không còn giá trị đối với người đã bước vào đời sau. Cõi sau, không còn dùng đồng tiền làm vật tráo đổi mua bán nữa. Sau khi chết, chúng ta không cần xử dụng những đồng tiền này nữa, nó chỉ là mảnh giấy vô giá trị. Nhưng chúng ta có thể bỏ vốn và sinh lợi qua đồng tiền vạn năng này. Đồng tiền có thể mua vé nước trời. Đây là một mối lợi lớn mà Chúa Giêsu đã mách nước cho chúng ta. Trên thiên đàng sẽ được hưởng phúc lợi do những đồng tiền bác ái sinh lời.
        Dùng tiền bạc để làm việc nghĩa và mua việc thiện. Đây là cách thế tuyệt vời chỉ có con người mới được hưởng đặc quyền này. Thật là hạnh phúc khi chúng ta biết dùng của đời tạm mà mua cuộc sống vĩnh cửu. Đồng tiền này có thể tráo đổi giá trị ở mọi nơi, mọi chỗ. Đồng tiền này không phân biệt biên giới quốc gia hay giá trị bảo chứng. Tiền đổi có giá trị vượt trên giá trị của chính nó. Người sử dụng nó có thể sinh lợi ngay tại chỗ qua những cử chỉ bác ái. Tiền bác ái là tiền cho đi, biếu không và không mong đáp trả ở đời này. Một cách thế cho đi xem ra rất dễ và quá dễ nhưng đi vào thực hành thì nhiêu khê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy dùng tiền cách nàyđể mua nước trời. Chúa Giêsu nói: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16:9).
6.Lợi Ích Đồng Tiền
        Nói chung, mỗi người chúng ta đều được hưởng phúc lợi từ công khó của người khác. Ngay từ khi chúng ta mở mắt chào đời, chúng ta đã được hưởng nhờ tất cả mọi nguồn sinh sống từ con người và xã hội. Thành quả của con người được bảo tồn qua mọi thời đại. Chính nhờ những tiền bạc của cải do con người làm ra mà chúng ta có tất cả những phương tiện hiện hành. Đây chính là sự liên đới trong xã hội loài người. Mỗi người đều có góp công trong việc hình thành xã hội. Không có một phần tử nào là vô ích. Vì mỗi con người đều là thụ tạo cao qúi của Thiên Chúa. Mỗi người hãy tự hào là mình đã góp công sức và khả năng để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho loài người.
        Đồng tiền được lưu hành khắp nơi tạo nên một sức mạnh trong các lãnh vực kinh tế và chính trị. Tiền có một sức mạnh sai khiến và điều khiển. Mãnh lực của đồng tiền đang bao trùm mọi sinh họat trên thế giới. Vì có tiền chúng ta có thể thực hiện được rất nhiều cơ sở vật chất và giúp đỡ nhiều cho sự phát triển con người và xã hội. Mặt trái của đồng tiền là tạo chiến tranh, mua bán vũ khí, tiêu diệt luân lý, chia rẽ con người và đồng tiền trở nên ông chủ hà khắc. Con người là chủ phải biết quản lý tiền bạc và của cải. Dùng tiền để xây dựng và tạo giây liên đới giúp đỡ nhau. Nước giầu giúp đỡ các nước nghèo chậm tiến. Người giầu biết chia sẻ và giúp đỡ những người nghèo và người cùng khốn. Những đồng tiền này sẽ sinh lợi cả đời này lẫn đời sau.
7.Tham Lam Tiền Bạc
        Chúng ta biết sự tham lam của lòng con người như ngọn lửa, ngọn lửa thèm khát những khúc gỗ. Trong lò lửa càng bỏ thêm củi gỗ, lửa càng bén nhanh và ngốn trọn. Con người cũng có thể bị lòng tham đốt cháy. Chúng ta biết lòng tham vô đáy mà. Những người tôn thờ tiền bạc sẽ bị tiền bạc thiêu rụi. Thánh Luca viết: Đức Giêsu nhìn ông ta và nói: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."(Lc 18:24-25). Tiền bạc của cải là phương tiện giúp chúng ta đi lên và cũng có thể chôn vùi chúng ta xuống đáy luyện ngục. Bởi vậy Chúa nhắc nhở chúng ta rằng tiền bạc là đầy tớ tốt và là ông chủ xấu. Tiền bạc châu báu dù quý giá đến đâu cũng chỉ là viên đày tớ phục vụ chúng ta. Khi chết, thân xác con người bất động, tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Họ chẳng mang theo được gì.
         Cuộc đời ngày sau, con người không còn dùng tiền bạc của cải ở đời này nữa. Con người sẽ được hưởng phần phúc hay bị luận phạt tùy theo công đức mà họ đã thực hiện ở đời tạm này. Chết là chấm dứt việc lập công rồi. Của cải có chất đống đó nhưng không có ý trao lại cho việc bác ái hay cho người khác, kể như của cái đó mất chủ quyền. Chủ quyền lại chuyển giao sang tay người khác hưởng dùng. Như thế của cải đời này có phải là phù hoa không chứ! Sách Giảng Viên viết: Ông Côhelét nói : "Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời ?(Gv. 1:2-3). Tiền bạc của cải còn dùng được gì nữa khi mà thân xác tan biến thành cát bụi. Vậy mà có nhiều người còn sống vẫn ưỡm ờ chìm đắm trong mê tín dị đoan. Họ mua tiền mã, vàng bạc châu báu, ngựa xe và đồ dùng giả để đốt gởi về thế giới bên kia cho người cõi sau xài. Thật là lầm lẫn khi họ nghĩ những người chết vẫn còn có những nhu cầu như những người còn sống.
8. Ngân Hàng Sự Sống
        Chúng ta đã được hưởng biết bao phúc lợi từ những tâm hồn quảng đại và những nhà hảo tâm. Họ đã dâng hiến khả năng tiền tài của cải để xây dựng xã hội giầu đẹp. Đã có biết bao nhiêu nhà thờ, trường học, nhà thương, viện mồ côi, viện dưỡng lão, các viện bảo tàng, các khu công kỹ nghệ, các phương tiện giao thông, các nhà máy chế biến thuốc thang, đồ dùng, quần áo, thực phẩm và vô số các cơ sở... Không phải tự nhiên mà chúng ta đang có mọi thứ. Tất cả đều do công khó của con người góp phần. Xã hội vẫn cần những nhà hảo tâm quên mình phục vụ tha nhân. Họ không những xây dựng hạnh phúc đời này cho họ và tha nhân mà còn góp phần sinh lợi cho cuộc sống mai sau. Chúng ta không thể nói rằng tôi không có khả năng gì để cống hiến. Dù ít dù nhiều chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta phải sinh lợi. Hãy nhìn xem:  Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền (Mk. 12:41)
        Chúng ta không thể đi đường tắt hay dùng tiền mua được phần thưởng cho linh hồn mà phải dày công sống đức ái. Sách Tông Đồ Công Vụ nhắc nhở chúng sinh: Nhưng ông Phêrô đáp: "Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa (Tđcv. 8:20). Trong cuộc sống chúng ta nhận biết có biết bao các tu sĩ thuộc các tôn giáo đang xả thân cứu độ chúng sinh. Đặc biệt chúng ta nhìn xem các thầy Dòng, cha Dòng, các Dì Phước và những người thiện nguyện, họ dâng cả đời để giúp làm vơi bớt đi những đau khổ của tha nhân. Họ cần tiền thật nhưng không phải cần cho riêng họ mà là có phương tiện để giúp đỡ những người cùng thiếu. Họ là ân nhân của chúng ta, là cánh tay nối dài đến tha nhân, chính họ đã nhắc nhở và giúp chúng ta cơ hội để bỏ vốn sinh lời qua việc bác ái.
Nói tóm lại,
        khi Thiên Chúa ban, Chúa ban cho đầy tràn chan chứa. Chúng ta nhớ câu truyện của ông Job. Ông Job đặt niềm tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Chúa, Chúa đã cho ông gấp bội phần. Chúa giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông sinh được bảy con trai và ba con gái (Job 42:12-13). Chúng ta hãy chọn Chúa là gia nghiệp và là chốn nương thân đời ta. Chúa sẽ dẫn dắt chúng ta tới đồng cỏ xanh tươi, suối mát tinh tuyền và dưỡng nuôi chúng ta no thỏa. Hãy cậy trông vào Lòng Thương Xót Chúa, Jesus, I trust in You. Lạy Chúa, chúng con tín thác nơi Ngài
                                                               Giuse Trần Việt Hùng
                                                                   
KÍNH MỜI ĐỌC: CHA MẸ VÀ CON CÁI
      Mời quí vị đọc và nhớ để đời  hai thân già bớt khổ ..!!!
 Quí vị thấy những cặp vợ chồng có 9 , 10 người con , dù là kỹ sư ,bác sĩ ,họ vẫn khổ vì con cái bạc bẽo !!! Nói chi quí vị chỉ có 4 hay 5 con !
         Chính bản thân tôi đã gặp  nhiều cha mẹ khổ vì sự bạc bẽo của con cái ở xứ Mỹ này ! Con họ là những người có học , giầu có , nhưng họ vẫn phải đi " share " phòng hay " get line " sau lưng tôi để xin nhà " low income "...
          Bài đọc sau rất chính xác và thiết thực . Xin quí vị đọc và nhớ dùm tôi cho đời mình bớt khổ vì chính những đứa con mà mình đã suốt đời hy sinh cho chúng nên nguời ...
          Tôi đã đọc được 1 bài rất hay : Nếu lỡ sanh con thì : vui với con khi chúng còn nhỏ . Lo cho chúng hoc hành nên người , và khi chúng trưởng thành , có gia đình rồi thì quên chúng đi để sống .
Và , đây là điều quan trong : Đừng trông mong chúng báo hiếu , kẻo thất vọng nặng nề ...!!! ( sách nói nhé )
         Chính vì biết rõ điều này nên bản thân tôi , đã 73 xuân xanh , ngày ngày đi phòng " gym " 3 tiếng để  tập thể dục , bơi lội ... vì bà xã đã bịnh rồi , tôi bịnh nữa là chỉ còn nước dắt nhau vào " nursing home " thôi ???
         Thân chào và chúc sức khỏe quí vị .                
         Than chuyen 
 Cha mẹ và con cái .
Một bài rất hay , hãy ráng đọc cho hết , đừng đọc nửa chừng rồi cho qua !!!
          Trong truyện cổ , người ta có kể chuyện một ông phú hộ và bốn người con trai . Khi bốn người con này lớn lên lập gia đình , ông phú hộ này đem một phần gia tài chia cho bốn người con , phần còn lại vợ chồng ông giữ để dưỡng già . Mấy năm sau khi vợ ông qua đời , mấy người con sợ rằng ông sẽ tìm vợ mới , lúc có con , gia tài này phải chia cho những đứa con khác . Chúng bàn với nhau thuyết phục cha , về ở với mình , săn sóc cha thật chu đáo , sung sướng để ông không cảm thấy cô đơn , khỏi cần phải tục huyền . Ðược ít lâu , chúng thuyết phục ông phú hộ chia hết tài sản cho chúng . Bùi tai và thấy không cần giữ riêng cho mình một tài khoản nào , ông đồng ý đem gia tài chia hết cho bốn đứa con .
        Sau đó ông đến ở với đứa con thứ nhất , nhưng đứa con này nghe vợ , chỉ được ít hôm bảo ông đến ở nhà đứa em kế . Cứ như thế , không ở được với đứa con nào . Không một đồng xu dính túi , người cha bị bỏ rơi , phải đi khất thực từng nhà . Bấy giờ cây gậy cũng còn có ích hơn là những đứa con . Cây gậy đó có thể giúp ông già xua đuổi những con chó , dò dẫm trên đường , tránh những vũng nước và giúp ông những lúc yếu chân sắp ngã .
Câu chuyện này sao giống câu chuyện của một bà mẹ ở Quận Cam . Sau Tháng Tư 1975 , hai vợ chồng đem một đàn con vượt biển sang Mỹ . Trong nhiều năm , ông bà vừa nuôi con khôn lớn , ăn học thành tài , dựng vợ gả chồng cho con , vừa tậu được một căn nhà khang trang trong vùng Bolsa . Sau khi người chồng qua đời ít lâu , bà vợ được con cái thuyết phục nên bán ngôi nhà đi , chia đều cho các con rồi về ở với con cháu cho đỡ cô đơn . Bà nghe theo , và cũng lần lượt ở với nhiều đứa con , chịu cảnh bạc đãi và cuối cùng bà quyết định phải rời khỏi nhà những đứa con ấy . May thay , trên đất Mỹ , bà già cô đơn này còn có chỗ nương tựa , đó là một món trợ cấp nhỏ và ngôi nhà “ housing ” mà chính phủ đã đành cho bà . Nếu ở một xứ sở khác , chắc bà cũng cần đến một cây gậy .
         Những đứa con mua nhà mới có thể đã không tính đến một chỗ cho cha mẹ già khi xế bóng , nhưng tôi biết nhiều bậc cha mẹ khi luống tuổi , con cái lập gia đình đi xa cả rồi , mà vẫn giữ cái nhà cũ nhiều phòng , với ý nghĩ dành cho con lúc trở về thăm viếng . Tôi có một người bạn được con trai bảo lãnh sang Mỹ , nhưng chỉ ít lâu sau cô con dâu muốn chồng bán căn nhà đang ở và đi mua lại một cái nhà nhỏ hơn , lấy lý do để tiết kiệm cũng là lý do để cha mẹ chồng phải dọn ra .
        Cha mẹ đối với con lúc nào cũng hết lòng . Mẹ có thể lăn vào lửa để cứu con , cha có thể đổ mồ hôi nhọc nhằn để đứa con có được một nụ cười hạnh phúc , nhưng những đứa con , khi đã có gia đình riêng của mình , không giữ được sự chăm sóc , lo lắng cho đời sống của cha mẹ . Người mẹ nào cũng mỗi đêm kéo chăn đắp cho con , sờ trán con , hạnh phúc theo từng nụ cười của con , nhưng bây giờ con ở xa , thời giờ dùng để gọi về thăm mẹ đôi khi cũng hiếm hoi . Ông Chu Dung Cơ nói về mối liên hệ giữa cha mẹ già và con cái :
“ Cha mẹ thương con là vô hạn , con thương cha mẹ là có hạn .
Con bệnh cha mẹ buồn lo . Cha mẹ bệnh con đến nhòm một cái , hỏi vài câu thấy là đủ
Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái , cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào .
Nhà của cha mẹ là của con . Nhà của con không phải là nhà cha mẹ .
Ốm đau trông cậy vào ai ? Nếu ốm đau dai dẳng có đứa con hiếu nào ở bên giường đâu ( cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử ) ”.
         Và lời khuyên đối với các bậc cha mẹ là : “ Khác nhau là như vậy ! Người hiểu đời coi việc lo cho con là nghĩa vụ , là niềm vui không mong báo đáp . Chờ báo đáp là tự làm khổ mình .”
        Cũng có nhiều con cái nuôi cha mẹ . Luận Ngữ chép , Tử Du hỏi về đạo hiếu . Khổng Tử đáp : “ Ngày nay người ta cho nuôi cha mẹ là hiếu , nhưng đến chó ngựa kia , người ta cũng nuôi , nếu nuôi mà không kính hiếu cha mẹ thì có khác chi !” Người già không khác những đứa trẻ , nhiều khi hay tủi thân , hờn dỗi và dễ phiền muộn , con cái có thể cho cha mẹ ăn uống , hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già .
         Người thợ hớt tóc cho tôi biết về con cái của ông , cả hai đứa con đều có nhà riêng , cùng ở trong quận Cam , nhưng không mấy khi chúng điện thoại hỏi thăm ông . Tháng trước , ông bệnh , nằm nhà một tuần lễ mà cũng chẳng đứa con nào ghé qua thăm . Ông nói thêm : “ Chỉ trừ lúc nào chúng cần nhờ đến ông việc gì đó ”, và buồn bã kết luận : “ Ở Mỹ này
, có chín đứa con , cha mẹ già bệnh cũng phải vào nursing home thôi !”
Tuy vậy , nursing home ở Âu Mỹ , mang tiếng là văn minh , hiện đại nhưng liệu rằng đây có phải là nơi yên ổn cho những ngày cuối cùng của tuổi già không ? Tại các viện dưỡng lão trên đất Mỹ mỗi năm có hàng chục nghìn trường hợp khiếu nại vì cách đối xử của nhân viên như bỏ bê , đánh đập , đại tiểu tiện , ói mửa mà không dọn dẹp , không cho uống nước , hiếp dâm , sờ mó , tệ hại nhất là đối với những bệnh nhân Alzheimer . Năm ngoái , phúc trình của Bộ Y Tế Minnesota cho ta thấy chỉ trong vòng 5 tháng đã có 15 trường hợp bệnh nhân mất trí nhớ bị hành hạ , trong đó có những vụ như bị chọc ghẹo liên tục , bị nhổ nước bọt vào miệng , bị bóp ngực hay hạ bộ . Phải chăng nhà dưỡng lão , chặng cuối đời của người già là chốn địa ngục có thật trên trần gian như thế !
        Vậy thì con cái có hiếu tâm , xin cầu nguyện cho các đấng sinh thành sớm ra đi trước khi họ trở thành những người mất trí lú lẫn , nằm suốt ngày một chỗ , tiêu tiểu không kiểm soát được . Thấy cha mẹ lớn tuổi mà còn minh mẫn , mạnh khỏe nên mừng , mà thấy cha mẹ ra đi nhẹ nhàng , trước khi phải chịu những cảnh đau lòng của tuổi già lại càng mừng hơn .
        Tuy vậy, rất nhiều gia đình người Việt trên xứ người có được niềm an ủi là họ có những đứa con Việt Nam , nhất là những đứa con của một gia đình nghèo khó , lớn lên trong chiến tranh và thông cảm được nỗi thiệt thòi bất hạnh của cha me.         
         
Photobucket

NHƯ LÒNG CHÚA KHOAN DUNG
        Sau khi thắng trận lớn, Sở Trang Vương mở đại yến khao tướng sĩ để tưởng thưởng công lao và lòng trung thành. Vua truyền cho các cung nữ của mình ra hầu tiệc. Đang ăn bỗng một trận gió làm đèn đuốc tắt hết. Lợi dụng bóng tối, một quan đại phu ôm chầm lấy người đẹp đang chuốc rượu cho mình và hôn. Người đẹp chính là nàng Hứa Cơ đang được nhà vua sủng ái nhất. Hứa Cơ bèn giật đứt giải mũ của vị quan ấy và đem trình vua xin Ngài trừng trị thích đáng.
        Thay vì phẫn nộ, vua ra lệnh cho các quan đều bỏ giải mũ khi đèn sáng. Không ai hiểu tại sao ngoài ba người liên hệ. Sở Vương nói: “Trong nguy biến, các quan đã liều thân vì đất nước, khi vui say, các quan quên lễ phép một chút, có sao đâu! Lẽ nào vì một chuyện nhỏ mà quên đi lòng hy sinh cao cả của người khác”.
        Hai năm sau, nước Sở đánh nhau với nước Tần. Đánh luôn năm trận mà trận nào cũng có một viên quan võ liều sống liều chết xông ra phía trước, đánh rất dũng cảm làm cho quân Tần phải lui binh. Nhờ vậy, quân Sở đại thắng.
Sở Trang Vương lấy làm lạ bèn hỏi:
- Trẫm đãi khanh cũng như mọi người khác, cớ sao khanh lại hết lòng giúp trẫm như vậy?
Vị võ quan trả lời:
- Thần rắp tâm đem tính mạng dâng cho bệ hạ đã lâu, nhưng nay mới có dịp đáp đền nghĩa xưa. Thần đây chính là người ngày xưa đã bị giật đứt giải mũ mà bệ hạ không nỡ hành tội.
        Sở Trang Vương là một vị vua có lòng khoan dung đại lượng. Chính lòng khoan dung nhân hậu của ông đã thu phục được nhân tâm, và mang lại kết quả không ngờ. Thật vậy, càng làm lớn, chúng ta càng phải có lòng khoan dung, nếu không người dưới sẽ chẳng kính phúc và cũng không thể hết mình với ta. Tha thứ lỗi lầm của kẻ khác chính là một cách hữu hiệu để chinh phục lòng người.
        Chúa Giêsu đã phán: “Kẻ được tha nhiều thì yêu nhiều” (Lc 7,47). Vì thế, chúng ta càng khoan dung tha thứ thì càng được mọi người yêu qúi, và nhất là càng được Chúa yêu thương và tha thứ mọi lỗi lầm cho ta: “Chúa nhân hậu với người nhân hậu” (Tv 124,4).
         Chúa Giêsu cũng đã hứa: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em” (Mt 6,14).
Hiến tế Thập giá của Chúa Giêsu chỉ nên trọn hảo, khi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Vì thế, lòng khoan dung tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương, bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù, kẻ làm hại, làm khổ cho mình.
        Vậy muốn có lòng khoan dung chúng ta cần phải có lòng bác ái sâu sắc như Thánh Phaolô đã diễn tả: “Lòng bác ái thì nhẫn nhục, chịu đựng, chậm giận dữ, mau quên điều xúc phạm, dễ dàng tha thứ lỗi lầm”. (x. 1Cr 13:4-6). Nghĩa là nếu có lòng yêu thương thật sự thì chúng ta dễ dàng khoan dung tha thứ.
         Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ cho con rất nhiều mà con tha thứ cho anh em chẳng được bao nhiêu. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở, để có thể ôm cả những người thù ghét con. Xin cho con một trái tim quảng đại, một tấm lòng nhân ái, cho con đừng bao giờ khép lại chính mình, nhưng biết vươn cao, vượt mọi cảnh tầm thường, mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện, để mặc lấy tâm tình yêu thương tha thứ “Như Lòng Chúa Khoan Dung”. Amen!
                                                                Thiên Phúc
           
TUỔI GIÀ
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi (Dnl. 5:16).
Cổ Học ghi tích truyện: Hai vợ chồng nhà kia làm ăn giầu có, song tính rất hà tiện. Còn cha già ngót 80, sức yếu, mắt mờ, chân tay run rẩy… nên lúc ngồi ăn thường đánh rơi vỡ chén cơm. Con dâu thấy thế bực mình, xúi chồng rầy cha đến nhức xương. Báo hại ông cụ tuy mắt mờ nhưng tai thính, nên nhiều lúc ngồi ăn mà nước mắt chan cơm. Cứ vỡ chén hoài như vậy, vợ bảo chồng đẽo một cái chén bằng gỗ cho cha dùng và đỡ khỏi tốn kém. Từ đó tha hồ mà rơi, mà không lo tốn kém. Ngày kia, vợ chồng đi xa về, thấy thằng con loay hoay đẽo cái gì, liền tới xem, thì thấy nó đang làm hai cái chén gỗ. Vợ chồng hỏi con đẽo bát làm chi vậy? Thằng bé trả lời: Để sau này cha má già, con cho ba má ăn giống như cha má cho ông nội vậy. Sững sờ và xấu hổ trước câu nói của con, từ đó hai vợ chồng hối cải nuôi nấng cha già tử tế.
1.Tuổi Già Đáng Kinh Trọng
        Theo truyền thống của nền văn hóa Việt và qua ảnh hưởng của các Đạo lớn như Khổng Giáo, Nho Giáo và Phật Giáo, cha ông tổ tiên của chúng ta đã tích lũy được những tinh hoa cốt lõi trong cách ứng xử ở đời. Chúng ta có cách học làm người qua Tam Cương (Sự liên hệ bổn phận giữa Vua với Tôi, Cha Mẹ với con cái và Vợ với Chồng), Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), Tam Tòng (Ở nhà theo cha mẹ, lấy chồng theo chồng và chồng qua đời theo con), Tứ Đức (Công, Dung, Ngôn và Hạnh). Đạo Hiếu được đề cao để giữ sự tôn ti trật tự trong đời sống gia đình.
        Người Kitô hữu còn được học biết nền văn minh Kitô Giáo. Đặc biệt là các giới răn về thờ phượng Thiên Chúa và tôn kính mẹ cha. Điều răn thứ tư trong mười điều răn được Thiên Chúa trao cho ông Moisen, dạy chúng ta là hãy thảo kính cha mẹ. Sách Lêvi cũng nhắc nhở chúng ta: Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy là ngươi kính sợ Thiên Chúa của ngươi (Lêvi 19:32).
Truyện xưa kể Bá Du đời Hán có tiếng là chí hiếu. Mỗi khi có lỗi bị mẹ đánh. Bá Du vẫn tươi cười nhận lỗi. Một ngày nọ, sau khi bị mẹ đánh đòn. Bá Du liền òa lên khóc. Bà mẹ ngạc nhiên hỏi: Tại sao mẹ đã nhiều lần đánh con để răn dạy mà con không khóc, thế tại sao nay con lại khóc? Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm, nhưng con không khóc vì biết sức mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy không đau nhưng con khóc, vì biết đó là sức mẹ đã già yếu rồi. Con khóc là vì thương mẹ, chứ không có ý oán hờn.
2.Tuổi Già Sức Yếu
        Theo luật tự nhiên, mọi tạo vật đều được sinh ra, rồi phát triển và chung cuộc tan biến. Con người cũng thế, sinh bệnh lão tử là sự thường tình của đời người. Sinh ra oe oe tiếng khóc chào đời là con người bắt đầu gia nhập vào dòng sự sống cùng trôi chảy về nguồn. Thời gian thoáng qua, tuổi đời chồng chất, chẳng mấy chốc đã đối diện với tuổi già. Khi đó, nơi thân xác sẽ xuất hiện không chứng này thì tật kia. Con người thấy mệt mỏi, chân tay rã rời, lưng còng tóc bạc và chân mỏi gối mòn.
         Kìa Cụ đã gần 100 tuổi. Cụ khỏe lắm, cụ còn ăn được nhiều. Ăn được và không có bệnh gì nghiêm trọng trong người, nhưng tâm trí cụ bị lẩn thẩn rồi. Thấy gì ăn nấy. Khổ hơn nữa là ăn nhiều phải tiêu hóa, nhưng cụ không điều khiển hệ thống tuần hoàn được nữa, thế là lại khổ cho con cháu rồi. Cháu nói: Ăn cho lắm vào, rồi lại thải ra cho nhiều, ai mà chịu được. Thế là cụ lại tủi thân. Ăn không dám ăn nhiều hoặc là ăn lén lút.
        Lại có một cặp vợ chồng lớn tuổi, Chúa cho hai ông bà sống thọ nhưng lại bị bệnh liệt giường. Ông bà sống đó nhưng không tự lo liệu việc cá nhân được, mà hoàn toàn tùy thuộc nhờ vả vào sự chăm sóc của con cái. Sau một ngày đi làm vất vả, anh chị về nhà thì thấy nhà cửa bề bộn, nào là phải tắm rửa cho con cái nhỏ, lao vào việc bận bịu bếp núc và cơm nước cho chồng cho con. Còn bố mẹ già nữa, tắm rửa và lau chùi thế nào đây? Con cái đành phải xuống quần xuống áo cho bố mẹ và lấy giây nước mà tắm xịt lên người cho sạch. Nghe qua thật là đau lòng. Nhưng ai trong hoàn cảnh mới hay, thức đêm mới biết đêm dài.
3.Hy Vọng Của Tuổi Già
        Người ta thường nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Cha mẹ nào mà không mong con khỏe mạnh, thông minh và thành đạt trong cuộc sống. Cha mẹ hy sinh tần tảo ngày đêm nuôi con và mong từng ngày cho con lớn khôn. Con khôn, con lớn và con ngoan là nguồn vui của cha mẹ. Sách Châm Ngôn dạy: Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha. (Cn. 17:6). Dân gian truyền đạt rằng: Kính lão đắc thọ. Ông 70 vẫn phải học ông 71. Một ngày sống là có thêm một kinh nghiệm. Con cái có thông minh giỏi giang, học biết các khoa học xã hội, có các bằng cấp, học vị nhưng để thành nhân, mỗi ngày đều phải học hỏi. Học biết cách sống từ kho tàng Lời Chúa, từ trường học, trường đời và từ người khác. Ai cũng có thể trở thành thầy dạy của chúng ta. Người ta nói: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư là thế.
Có mẩu truyện xem ra tình cờ nhưng mà cũng chẳng ngờ. Mẹ vui mừng vì con cái tậu được ngôi nhà mới khang trang và rộng rãi. Thế là gia đình có cơ hội xum họp và sống tự do riêng rẽ. Mẹ gần con, bà gần cháu vui thật. Nhà mới có ba phòng trên lầu hai, tầng trệt có phòng khách rộng, lầu dưới rộng có một phòng mới dọn và một phần để chất những đồ đạc lỉnh kỉnh.  Gia đình lại có đông con và con còn nhỏ. Phải chia nhau phòng ốc làm sao cho phù hợp. Con cái muốn cho mẹ được tự do một mình, không bị phiền phà. Nên con quyết định cho mẹ ỏ lầu dưới cùng. Mẹ không phải leo thang và dễ dàng ra vào tùy thích. Gia đình con ở trên lầu hai, cha mẹ, con cái sát cận kề nhau để chăm nom và dạy dỗ con. Con vui nhưng lòng mẹ thì héo hon. Chịu đựng làm sao được, mẹ nói rằng: Tụi nó bỏ mẹ, cho mẹ xuống dưới hầm ở một mình, còn con cái nó ở trên lầu cao sạch sẽ và thoáng mát. Phận làm con, phải xử thế nào cho đúng phép bây giờ.
        Bố qua đời đã vài năm, mẹ vẫn sống ở chung cư. Mẹ mừng vui vì con cái vừa mới mua được ngôi nhà. Trong thời gian sửa chữa và làm mới lại. Mẹ con đồng một lòng muốn về chung sống với nhau. Thời gian hưởng nhờ nơi chung cư của Chính Phủ cũng vừa kết thúc. Mẹ trông ngóng sớm được về ở bên con. Ngày chuẩn bị dọn nhà, con nói với mẹ rằng nhà con không đủ phòng và chúng con mua nhà cho gia đình của chúng con ở, mẹ không thể về ở chung đâu. Mẹ khóc xót xa, đắng cay, đau buồn và cảm thấy tủi nhục cho thân phận. Mẹ đành ra ngoài mướn nhà ở riêng.
4.Mong Ước Tuổi Già
        Ai trong chúng ta cũng mong muốn được sống khỏe và sống lâu. Thiên hạ tìm kiếm mọi nguồn bổ dưỡng để giúp kéo dài sự sống. Các loại quảng cáo đi tìm cuộc sống thọ: nào là sâm bổ lượng, nhân sâm ngàn năm, thuốc bổ trường sinh, thuốc trẻ mãi không già… Nhưng rồi tử thần chẳng trừ một ai, kẻ trước người sau lần lượt ra đi. Chúng ta thử tưởng tượng nếu người già cả cứ sống mãi ở đời, thế giới này sẽ ra sao? Sách Giảng Viên viếtMột thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây (Gv 3:2).  Dù sống trong tuổi nào, chúng ta cũng đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính Ngài mới là chủ của sự sống con người. Ngài rút hơi thở là sự sống con người biến đi. Tiên tri Isaia nhắc nhớ rằng: Cho đến khi các ngươi già nua tuổi tác, trước sau gì Ta vẫn là Ta; cho đến khi các ngươi da mồi tóc bạc, Ta vẫn còn gánh vác các ngươi. Như xưa nay Ta vẫn từng đối xử: Ta sẽ nâng niu, gánh vác các ngươi, và ban ơn cứu thoát (Is. 46:4).
        Đây là một kinh nghiệm và câu truyện có thật trong cuộc sống đời thường. Có gia đình kia, sau khi sang đất nước tự do, làm ăn khá giả và bảo lãnh cha mẹ sang xum họp với gia đình. Thật tội nghiệp ông bà già, ngôn ngữ tiếng tăm chẳng rành, văn hóa cũng không thông, cách giao tế lại quê mùa, cách cư xử lại qúa cổ hủ và không rành rõi xử dụng các loại máy móc tân kỳ. Ở với vợ chồng đứa con được ít tháng. Vì sự khác biệt lối sống và sự phiền hà trong cuộc sống, gia đình gây gỗ bất hòa.  Không nhịn được nữa, con cái đành phải quyết định cho cha mẹ ra riêng. Vào một chiều mùa đông giá rét, người con trai chở cha mẹ đến một cái nhà mới thuê. Mở cửa xe và thả ông bà cụ xuống với một va li quần áo, con đưa chìa khóa nhà cho Ba và rồ máy chạy mất hút. Làm gì bây giờ, vắng vẻ và cô đơn, ba mẹ không biết than van cùng ai. Ngoài trời thì lạnh lẽo, ông bà liền vội mở khóa cửa bước vào nhà. Hai ông bà như rơi vào thế giới xa lạ, đèn điện thì không thông mà bếp núc chẳng rành. Biết làm sao bây giờ? Ông bà chỉ biết ôm mặt khóc thương cho số phận hẩm hiu.
5.Viện Dưỡng Lão
        Ai có dịp vào thăm Viện Dưỡng Lão, chúng ta sẽ thấy sao mà có qúa nhiều người già ngồi trên xe lăn, mắt cứ hướng ra phía cửa vậy. Hỏi ra mới biết: Các cụ đang trông ngóng con cháu đến thăm viếng. Tuổi già và nỗi cô đơn đi liền với nhau. Con cái có thể lấy gì mà bù lấp vào trái tim của những mảnh đời cô đơn lạnh giá này. Chúng ta vẫn thích nghe nói: Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Công cha nghĩa mẹ đâu hết rồi, mà để cha mẹ tủi thân một mình nơi quê người xứ lạ. Gia đình ông bà kia có đến 8 đứa con nhưng con cái không thể chăm sóc và đành gởi bố mẹ trong Viện Dưỡng Lão. Ai cũng có gia đình phải chăm lo và săn sóc. Người ta nói: Cha chung không có người khóc.Cha mẹ là của chung, không ai muốn nhận cha mẹ về phần mình để nuôi nấng. Vì vậy Viện Dưỡng lão trở thành Viện Mồ Côi cho các ông cụ bà cụ cô đơn.
Người đời thường nói: Đời cha ăn mặn đời con khát nước. Sống trên đời, cũng không tránh khỏi những gương mù gương xấu. Có những người đã lớn tuổi nhưng cuộc sống vẫn bê tha trong lầm lạc. Họ có thể bị nghiện ngập ma rượu quấy phá. Có khi họ đắm mình trong vui hưởng lạc thú. Đôi khi họ bị rơi vào cuộc chơi đen đỏ cờ bạc làm lụn bại gia phong. Cho nên ông Job đã chia sẻ kinh nghiệm: Không phải tuổi tác làm cho người ta được khôn ngoan, và chưa chắc người già cả đã phân biệt được phải trái (Job 32:9). Nghe truyện này tưởng đâu nói đùa cho vui, nhưng là câu truyện thật. Ông bà cũng đã tới tuổi thất tuần và sống đời gia đình gương mẫu. Họ đã có dâu rể và con cháu đầy đàn. Thế rồi một ngày đẹp trời, bà nghĩ đến mấy đứa cháu họ đang sống khổ sở ở quê nhà. Bà đề nghị với ông làm giấy ly dị để về quê làm giấy kết hôn giả, đưa cháu của bà qua đất nước tự do. Nghe hơi lạ làm sao nhưng rồi ông cũng vâng lời bà. Chuyến về quê hương xuông sẻ và thủ tục giấy tờ hợp lệ, thế là ông đưa cháu qua. Lửa gần rơm mà, ông cầm lòng sao nổi và đứa cháu trẻ sinh đẹp qúa. Thật là già mà không nên nết. Hôn nhân giả ông với cháu, trở thành hôn nhân thật. Ông bà đã làm giấy ly dị giả, giờ đây đã trở thành ly dị thật rồi. Bà chỉ còn cách kêu trời. Đúng là: Khôn ba năm dại một giờ.
6.Tuổi Về Hưu
        Tốt danh hơn lành áo, sống ở đời, ai mà không muốn để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế. Nhất là trong đời sống gia đình, chúng ta biết rằng trông qủa thì biết cây. Cây tốt sẽ sinh trái tốt. Cha mẹ nhân đức, đạo hạnh sẽ sinh hoa qủa tốt lành nơi con cái. Tục ngữ dạy rằng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Không phải tự nhiên mà chúng ta có được những tấm gương thánh thiện và anh hùng nơi con cháu. Vì rằng cây có cội, nước có nguồn. Nguồn trong thì nước sạch. Thánh Vịnh diễn tả tâm tình của người chính trực như sau: Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Libăng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta; già cỗi rồi, vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn (Tv. 92:13-15).
        Đời tận hiến, đôi lúc cũng có truyện không vui. Nghe câu nói: Cha còn trẻ, cha thiếu kinh nghiệm. Cha già rồi, cha về hưu đi là vừa. Thật là đau lòng và bức xúc. Tôi nghiệm thấy tuổi già thật không đơn giản, nhất là các vị tu hành độc thân. Nếu về hưu dưỡng chung sống trong Nhà Dòng, đó là một hạnh phúc, vì có cộng đồng cùng nâng đỡ và chia sẻ. Mới đây, tôi chứng kiến ba linh mục già xấp xỉ tuổi về hưu, tôi cảm thấy thật cám cảnh. Một linh mục chưa kịp tới tuổi về hưu thì ngã bệnh, thế là tất cả những dự tính, những chung góp và những gom nhặt chắt chiu rơi vào tay người khác. Nằm bệnh cô đơn một mình chờ ngày Chúa gọi. Một linh mục khác, đã hưu được vài năm nhưng không có gốc gác, nên cũng bị lang thang ở đậu nhà này qua nhà khác, bị con cháu coi thường và khinh bỉ, bị rẫy bỏ và sau cùng đổ bệnh phải đi vào Viện Dưỡng lão, sau ít tháng thì qua đời. Có linh mục khác, một đời oanh liệt là tuyên úy trong quân đội, chức cao quyền trọng, khi về già đã đến được đất nước tự do. Cha sáng lập và phục vụ Cộng Đoàn Việt Nam , lo toan đủ thứ cho mọi người giáo dân xum họp và sống đạo. Nhưng tuổi già rồi làm sao đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của giáo dân, thế là ngài bị tẩy chay và bỏ rơi. Tuổi vừa kịp về hưu đã ngã bệnh, đau đớn xa đoàn chiên và chết một mình tại bệnh viện. Biết nói làm sao bây giờ!
7.Trường Thọ
        Bao nhiêu tuổi mới được gọi là sống thọ. Người ta thường phân biệt tuổi đời qua trung thọ, đại thọ và thượng thọ. Trong các dịp lễ Thành hôn và Vu quy, chúng ta thường chúc cho cô dâu, chú rể: Trăm năm hạnh phúc, sống ba vạn sáu ngàn ngày hạnh phúc, sống tới tóc bạc răng long hoặc có con cháu ba bốn đời. Trong Kinh Thánh Cựu Ước ghi nhận: Ông Ixaác sống được một trăm tám mươi năm. (Stk. 35:28). Bây giờ, hôm nay đây tôi đã được tám mươi lăm tuổi. (Josuê 14:10). Tác giả Thánh Vịnh đã viết: Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi (Tv. 90:10).
         Thế nào là sống đạo Hiếu và luân lý đạo đức Kitô hữu? Bố sống đủ rồi, đã trên 90 tuổi, vậy là qúa thọ. Chúng con chỉ muốn lo cho bố được mọi sự tốt đẹp. Khi bố qua đời, có đông người thăm viếng và tiễn đưa bố tới nơi an nghỉ cuối cùng.  Bố bị bệnh già, thay đổi theo từng ngày và lúc khỏe lúc yếu. Rồi một ngày bố bị tai biến, nhưng bố còn tỉnh, khuôn mặt bố còn hồng hào và mắt bố vẫn còn nhìn trìu mến. Chúng con không muốn bố phải kéo dài sự sống trong tình trạng này. Chúng con đồng ý với bác sĩ không truyền thức ăn lỏng vào thân xác cho bố nữa. Nghĩ rằng bố sẽ ra đi sớm đúng ngày như chúng con dự liệu cho thuận lợi mọi bề trong công ăn việc làm. Thế nhưng qua 7, 8 ngày rồi, bố vẫn còn tỉnh. Vệ sinh cho bố rất sạch sẽ. Có ăn uống gì đâu mà không sạch chứ! Chúng con đã cắt nguồn thực phẩm nuôi sống bố rồi. Bố không còn cầm cự được nữa, ngày thứ 9, bố nhìn chúng con lần cuối với sự yêu thương chan hòa và bố đã nhắm mắt lìa đời.
8.Luật Tiến Hóa
        Cuộc đời con người là một liên đới trùng trùng điệp điệp. Không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với và sống cùng người khác. Nhìn sóng biển dập dồn, người ta nghiệm ra rằng: Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy. Đời cha sao, đời con sẽ lập lại như thế, vì cha mẹ là thầy dạy đầu tiên khai trí cho con cái. Sóng biển là sự di chuyển tự nhiên nhưng cuộc sống con người tùy thuộc nhiều hoàn cảnh và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu cha mẹ nêu gương không tốt cho con cái, thiên hạ sẽ dè bửu: Cha nào con nấy mà.
        Tựu trung lại, ai trong chúng ta cũng có những từng trải kinh nghiệm của cuộc sống. Dẫu rằng chúng ta còn trẻ nhưng chúng ta cũng đã đang có những kinh nghiệm của tuổi già về tinh thần cũng như thể xác. Mỗi khi chúng ta đau bệnh, chúng ta sẽ cảm thấy sự yếu đuối rã rời của thân xác và chán nản của tinh thần. Chân tay bủn rủn, đau nhức, bải hoải, ngại ngùng mọi thứ, sợ nước, sợ nắng, sợ uống thuốc ngay cả không muốn ăn nữa. Đó giống như tâm trạng của những người tuổi đã về chiều. Luật đào thải không loại trừ một ai.
Thay lời kết:
        Chúng ta biết rằng sự sống dài ngắn không quan trọng. Quan trọng nhất là sống làm sao cho có ý nghĩa. Những ngày tháng trôi qua của cuộc đời nên để lại những dấu ấn tình yêu nơi lòng người. Chúng ta hãy trân qúy từng giây phút mà chúng ta được sống, vì mỗi phút giây đều là giây phút mới Chúa ban. Thực hiện được gì, chúng ta hãy làm ngay và đừng để đến ngày mai. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu. Công ơn cha mẹ như trời như biển. Ơn cưu mang, ơn sinh thành, ơn dưỡng dục và ơn chăm lo dạy dỗ và yêu thương, con lấy gì đáp đền cho cân? Xin Chúa chúc lành cho gia đình chúng ta luôn sống trong sự bình an và tình yêu của Chúa.
                                                        Giuse Trần Việt Hùng
                                                                     Bronx, New York
CÂU CHUYỆN MÙA XUÂN:  
CHUYỆN “LÀM GIẦU
                           Linh mục Anphong Trần Đức Phương
        (Có những người email hỏi tôi sao đã viết “Câu chuyện Mùa Hè”, rồi “Câu chuyện Mùa Thu” mà không thấy Chuyện Mùa Đông và Mùa Xuân?... Vậy hôm nay xin gửi đến quý vị  “Câu chuyện Mùa Xuân”, còn Câu Chuyện Mùa Đông xin để tương lai trả lời.
Câu chuyện Mùa Xuân là những “Câu Chuyện Làm Giầu,” vì Mùa Xuân người ta thường chúc nhau “Phúc, Lộc, Thọ” (chúng ta nhớ lại bài thơ trào phúng của cụ Trần Tế Xương: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau…)
Mở đầu là câu chuyện ngụ ngôn mà chắc qúy vị đã biết; nhưng cũng xin kể lại nơi đây để mở đầu câu chuyện “Làm Giầu.” Câu chuyện ngụ ngôn từ lâu lắm rồi… từ thời mà ‘loài vật còn nói được tiếng loài  người!...’ ( nhân cách hóa con vật). 
         Có hai anh em nhà kia, người anh thì khôn khéo, lanh lẹ, và ham làm giầu. Người em lại thực thà, hiền lành. Khi cha mẹ mất đi, người anh lấy quyền huynh trưởng để chia gia tài và chiếm gần hết tài sản cha mẹ để lại; chỉ dành cho vợ chồng người em ngôi nhà nhỏ, lụp xụp với mấy cây ăn trái. Ngày ngày vợ chồng người em phải vất vả làm vườn, hái trái để kiếm ăn. Đặc biệt có cây khế là có trái ngọt bán được khá tiền để nuôi sống đàn con. Nhưng có con chim đại bàng cứ đến ăn những trái khế chín. Hai vợ chồng không biết làm sao để ngăn cản. Một hôm người chồng than thở  với con chim về thân phận của gia đình mình. Con chim thương cảm tình cảnh của vợ chồng anh, nên bảo anh: “Hãy may cái túi ba gang mà đi đựng vàng.” Anh liền may chiếc túi ba gang và theo lời bảo của con chim, anh cưỡi lên mình con đại bàng. Con chim chở anh đi qua biển và đến một vùng có thật nhiều vàng và bảo anh lấy các thỏi vàng đầy chiếc túi ba gang. Sau đó con chim lại đưa anh trở về ngôi nhà cũ. Từ ngày đó gia đình anh sống khá giả hơn. Khi nghe được câu chuyện của người em, ông anh tham lam lại tìm cách đổi thửa đất có cây khế ngọt, rồi cũng than thở với con đại bàng về số phận của mình, và cũng được con chim bảo “Hãy may cái túi ba gang mà đi lấy vàng.” Người anh vui mừng, may túi, nhưng vì lòng tham lam anh đã mang đi chiếc túi rất lớn để có thể lấy cho được thật nhiều vàng. Con đại bàng cũng đưa anh qua biển cả đến chỗ kho vàng. Anh đã lấy thật nhiều thỏi vàng để bỏ vào chiếc túi to tới tám gang; rồi lại leo lên mình con chim để được đưa về nhà. Nhưng, ‘khôn quá hoá dại!’ Lòng tham quá độ của anh đã hại anh! Khi bay qua biển cả, con đại bàng chở anh cùng với số vàng quá nhiều, chịu không nổi, nên đã phải trút anh và số vàng chìm sâu xuống biển cả. Thế là lòng tham lam quá độ đã chôn sâu anh xuống lòng đại dương, sóng nước mênh mông! 
        Vừa rồi, đọc báo ‘điện tử trên mạng’ trong nước thấy mấy ông lớn ở Việt Nam, có ông làm tới Thứ Trưởng Bộ Thương Mại, giầu có gấp bội so với người dân nghèo trong nước Việt Nam thân yêu của chúng ta hiện nay, tuy nhiên lòng tham vô đáy, các ông đã biển thủ ‘tiền bạc của nhân dân’ lên tới tiền triệu, tính theo đô-la. Nhưng lòng tham đó đã ‘chôn sống’ các ông trong vòng lao lý, của cải bị tịch thu, gia đình tan nát. 
         Tại Hoa Kỳ, lâu lâu đọc báo, lại thấy mấy ông bà tham lam làm giầu, lập đường giây manh mối để đưa người về Việt Nam làm hôn thú giả, đưa sang xứ Cờ Hoa để lấy cả 40 ngàn đô-la, một số tiền lớn, dại gì không làm, nhưng ‘thiên bất dung gian,’ cuối cùng lòng tham cũng chôn sống các ông bà đó vào chốn tù tội và tài sản bị tịch thu. Có trường hợp, vợ thúc đẩy chồng, ‘giả vờ’ làm giấy ly dị, rồi sau đó về Việt Nam làm hôn thú với em gái của vợ để đưa sang Hoa Kỳ. Công việc được trót lọt, vì giấy tờ hợp pháp. Tuy nhiên sau đó, chị mới thấy mình dại dột vì lòng thương ‘hại’ đối với cô em gái của chị. Cuối cùng chị đã mất cả chồng, cả em, và gia đình cũng tan nát vì chồng chị đã mê cô em, bỏ chị, đi nơi khác để sống với cô em  như vợ chồng . 
        Vừa qua, đọc báo thấy cả một đường giây do mấy ông bà Việt Nam ở Hoa Kỳ, nước Anh, Úc…thật là tài giỏi, khôn lanh. Mua nhà thật lớn, không ở cũng không cho thuê, chỉ để kín đáo trồng cây cần sa trong nhà để bán kiếm tiền triệu đô-la, rồi rửa tiền… Rút kinh nghiệm của các đường giây trước đã tiêu thụ số điện quá lớn để sưởi ấm cây trồng nên bị khám phá, mấy bạn trẻ lần này khôn ngoan, tài trí đến nỗi lập được hệ thống lấy thẳng điện từ thành phố, nên Công Ty Điện Lực không khám phá ra. Tuy nhiên FBI cũng khám phá ra. Báo chí tiếng Việt và tiếng Anh đã tường thuật đầy đủ chi tiết.
         Ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, mới đây một chiếc máy bay bị trục trặc máy móc, phải hạ cánh xuống một vùng đồi núi, và nhân viên nhà nước đi cứu nạn đã khám phá ra cả một vùng rộng lớn trồng toàn cần sa. Những người muốn làm giầu phi pháp cuối cùng cũng kết thúc bằng con đường đi đến tù tội, gia đình tan nát… Tuy nhiên cũng chẳng bù được vào cái tội làm giầu một cách phi pháp, đưa bao nhiêu con người vào vòng nghiện ngập, chưa kể tạo ra những băng đảng giết hại lẫn nhau vì buôn bán cần sa, ma túy. 
Ngày nay, có nhiều ‘sòng bạc’ đã được mở ra ở khắp nơi. Nhiều người muốn làm giầu  bằng cờ bạc đã bị tan gia bại sản. Có người đi đến tự tử. Lại còn ‘chơi hụi’ lừa đảo lẫn nhau. Đánh cá trò chơi thể thao v.v… Tất cả chỉ do muốn làm giầu nhanh chóng, gian xảo… đã đem lại những hậu quả ngược lại: “Của phi nghĩa có giầu đâu…” 
         Hồi sau năm 1975, khi ở Saigon , tôi có dịp thăm viếng một gia đình quen biết. Gia đình gốc ở miền Bắc Việt Nam và di cư vào miền Nam năm 1954, cư ngụ tại vùng ven Saigon . Trong câu chuyện thân mật, ông cụ có kể cho tôi câu chuyện “Làm Giầu” của gia đình cụ như sau: Khi còn ở ngoài Bắc, gia đình cụ làm ăn giầu có và tích trữ của cải bằng cách gói các giấy bạc “Đông Dương” và giấu vào các nơi kín đáo trong nhà mà chỉ có hai cụ biết (lúc đó ngân hàng còn chưa thịnh hành). Chẳng may một hôm vào tháng năm, đang mùa gặt hái và trời rất nóng, cả gia đình đi làm ngoài đồng, người nhà nấu ăn làm cháy nhà, thế là cháy hết cả các gói tiền dành dụm được. Rồi gia đình lại lo làm giầu và lại trở nên giàu có. Rút kinh nghiệm, các cụ mua vàng và chôn dấu ở các nơi trong nhà, nhưng người nhà biết được , đào lấy mất. Sau đó, hai cụ tính kỹ hơn, lúc nào có tiến đều bỏ ra để mua gỗ qúy như gỗ lim, gỗ gụ… và ngâm xuống ao để sau này làm nhà cho các con khi khôn lớn lập gia đình thì có nhà ở. Như vậy là chắc ăn, chẳng lo bị cháy, chẳng lo bị mất trộm. Nhưng đến năm 1954, bị nhà nước Cộng Sản tịch thu hết. Thế là “tay trắng lại hoàn trắng tay…” Chạy được vào miền Nam , lại lo làm giầu, và của cải tích trữ được đều để vào Ngân Hàng, như vậy chẳng còn gì mất mát, lại có lời thêm! Nhưng đâu có ngờ, năm 1975, Cộng Sản tràn vào miền Nam và tịch thu các ngân hàng; tiếp theo là mấy đợt đổi tiền liên tiếp… Thế là lại “trắng tay.” Câu chuyện của các cụ kể đến đó là hết… Nhưng “câu chuyện làm giàu” chưa hết… Con cháu các cụ chạy được sang Hoa Kỳ, lại cũng lo làm giàu, và lo gửi vàng bạc, qúy kim vào các ‘hộp an toàn’ ở ngân hàng Key Bank ở một thành phố vùng Tây Bắc Hoa Kỳ. Nhiều người gửi như vậy, vì không muốn để số tiền lớn trong chương mục ngân hàng vì lý do riêng, hoặc vì số tiền do làm ăn bất chính, hoặc gian lận trợ cấp… sợ Sở Thuế Vụ nhòm ngó… Chẳng may vào khoảng năm 1997, vào dịp cuối tuần nghỉ Lễ Lao Động, những kẻ gian manh, dùng khoan điện, khoan một lỗ ở tầng trên xuống ngay chỗ để các ‘hộp an toàn’; rồi khoan các hộp ra và lấy đi nhiều qúy kim của nhiều người, trong số đó có con cháu của các cụ. Thế là con cháu các cụ lại đau đớn vì bao của cải tan biến mất. “Ôi của cải chóng qua ở đời này làm bao người gặp bao ưu phiền…” 
        Chúng ta thường quá lo làm giầu để của cải, cơ nghiệp cho con cháu. Nhưng chính của cải đó nhiều khi làm hư con cháu. Dựa vào tài sản ông bà cha mẹ để lại, con cháu đâm ra lười biếng, không chịu học hành, không chịu siêng năng làm việc. “Nhàn cư vi bất thiện,” chúng sống ăn chơi trác táng đi đến chỗ thân tàn ma dại, tài sản tiêu tan. Đúng là thương con cháu, nhưng là “thương hại!”… thương mà hóa ra hại chúng! Người Hoa Kỳ huấn luyện cho con cái biết sống tự lập ngay khi còn nhỏ. Những người giầu có thường dành nhiều của cải để giúp các hoạt động văn hóa, từ thiện, tôn giáo… Họ chỉ giúp con cái cho đến khi đủ 18 tuổi. Khi đủ 18 tuổi các em thích làm việc để sống tự lập bằng bàn tay, khối óc của mình. Các em thường vừa đi học, vừa đi làm. Ít người muốn sống dựa vào cha mẹ hoặc trợ cấp xã hội. 
        Có lần tôi nghe một ông kể chuyện về việc giúp mấy đứa cháu ở Việt Nam . Nhưng sau này khi có dịp về thăm họ hàng ở Việt Nam , mới thấy dại. Vừa mất tiền vừa làm hư các em. Các em này chỉ sống ăn chơi dựa vào số tiền ông gởi về, không lo học hành, không lo  làm ăn, chẳng có nghề nghiệp gì để sống tự lập… chỉ khôn khéo tạo ra các mánh lới để xin tiền từ nước ngoài gởi về. 
        Mỗi người chúng ta đều phải lo ‘làm giầu’, phải lo tăng gia sản xuất để xây dựng và phát triển thế giới mà Chúa đã dựng nên và ban cho nhân loại để phát triển mãi mãi về mọi phương diện ( Xin đọc chương đầu sách Sáng Thế). Chúng ta phải lo ‘làm giầu’ để xây dựng bản thân, gia đình và xã hội. 
Nhưng…
         Hãy làm giầu một cách lương thiện. Không buôn bán gian lận. Không bóc lột sức lao động của người làm công. Không gian lận trợ cấp xã hội. Không làm giầu bằng buôn bán thuốc phiện để gây bao tệ nạn xã hội. Không làm giầu bằng ham mê cờ bạc… “Của phi nghĩa có giầu đâu…”
(Xin doc: Lc 12, 13…1 Tm. 6, 9…17…) 
        Chúng ta phải siêng năng làm việc, nhưng cũng biết dành thời giờ để nghỉ ngơi, để chia sẻ tình thương giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Có những gia đình quá lo làm giầu đến khi có tiền bạc thì ‘tình yêu đổ vỡ’, gia đình ly tán. Hoặc không để giờ săn sóc con cái, đến khi chúng hư hỏng mới ân hận  không kịp. 
         Chúng ta cũng phải dành thời giờ để lo cho đời sống tinh thần. Con người khác con vật, vì vừa có xác, vừa có hồn. Vừa có đời sống vật chất, vừa có đời sống thiêng liêng. Vừa có đời sống gia đình, vừa có đời sống xã hội. Do đó, chúng ta cũng phải chu toàn bổn phận thờ phượng Chúa, thăm viếng những người gặp hoạn nạn, những người đau ốm. Tham gia các sinh hoạt của cộng đoàn , gia nhập các hội đoàn, ca đoàn. Tham dự các lớp học về Kinh thánh, tham dự các dịp nhà thờ tổ chức tĩnh tâm, nhất là vào Mùa Chay và Mùa Vọng để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Giáng Sinh, và để canh tân bản thân và gia đình, thăng tiến hôn nhân và giáo dục con cái. 
         Khi có của cải, chúng ta hãy biết ‘trả lại Chúa những gì Chúa đã ban cho chúng ta,’ bằng cách giúp đỡ những người nghèo khó, các công cuộc truyền giáo, xã hội và văn hóa. “Tôi biết lấy gì để trả lại cho Chúa những gì Chúa đã ban cho tôi…”(Xin đọc Mt. 19, 1…). 
         Chính ‘của cải’ làm thăng tiến con người và thế giới. Nhưng cũng chính của cải có thể làm băng hoại lương tâm con người, lương tâm chức nghiệp, băng hoại gia đình, xã hội. “Chúng ta hãy biết dùng của cải chóng qua mà mua lấy Nước Trời”(Lc 12, 33; Mt. 6,16) để khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta được an tâm trở về với Chúa là Cha chúng ta. Lúc đó bỏ lại mọi sự, mọi của cải trần gian, chúng  ta có thể nở một nụ cười để từ biệt thế giới này, và Chúa cũng mỉm cười để đón chúng ta vào Nước Hằng Sống, và ngài có thể nói với chúng ta “Con hãy vào dự phần thưởng Nước Trời, vì xưa Cha đói, con đã cho ăn… Cha khát, con đã cho Cha uống…” (Xin đọc Phúc Âm Matthêu 25, 31-46).
      
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA THÁNH MAHATMA GANDHI
         Lạy Chuá,
        Xin cho con dám nói lên sự thật truớc kẻ mạnh và đừng nói dối để đuợc kẻ yếu tán thuởng.
Nếu Chuá cho con tiền bạc, xin đừng lấy đi hạnh phúc cuả con.
Nếu Chuá cho con sức mạnh, xin đừng lấy đi khả năng lý luận cuả con.
Nếu Chuá cho con thành công, xin đừng lấy đi đức khiêm nhu cuả con.
Nếu Chuá cho con đức khiêm nhu, xin đừng lấy đi lòng tự trọng cuả con.
Xin giúp con nhận biết đuợc khiá cạnh khác cuả sự việc,
và đừng để con kết tội những kẻ đối nghịch với con là phản bội,
vì họ không chia xẻ quan điểm cuả con.
Xin dậy cho con biết yêu thuơng kẻ khác như yêu thuơng chính bản thân mình.
Và dậy con phán đoán chính bản thân mình như phán đoán kẻ khác.
Xin đừng để con say men chiến thắng khi đạt đuợc thành công,
Và đừng để con thất vọng khi con thất bại.
Nhưng hãy dậy con nhớ rằng
Thất bại là thử thách đưa đến thành công.
Xin dậy cho con biết rằng lòng khoan dung là mức độ cao nhất cuả sức mạnh.
Và ý muốn trả thù là biểu hiện đầu tiên cuả sư yếu đuối.
Nếu Chuá không ban cho con cuả cải,
Xin hãy cho con lòng trông cậy.
Nếu Chuá không cho con thành công,
Xin hãy cho con ý chí mạnh mẽ để tiếp nhận thất bại.
Nếu Chuá không cho con sức khoẻ,
Xin hãy cho con ân sủng đức tin.
Nếu con có làm ai tổn thuơng,
Xin ban cho con sức mạnh để xin lỗi họ.
Nếu có ai làm cho con tổn thuơng,
Xin cho con lòng độ luợng và sức mạnh để tha lỗi cho họ.
Lạy Chuá
Nếu con có quên Chuá,
Thì lạy Ngài,
Xin Ngài đừng quên con.
Amen.
 33 Điều suy nghĩ về đàn ông
  1- Người đời thường nói đàn ông là chủ gia đình, nhưng thật ra họ là tên nô lệ của gia đình . (Alphonse Kaar ) .
2- Người đàn ông lương thiện có thể yêu như một người điên, nhưng không thể yêu như 1 người ngu (LA Rochefoucauld) .
3- Người đàn ông mỗi khi bị tình yêu xâm chiếm thì không khác gì ngọn đèn lồng chỉ còn sáng mỗi bên .(Louis De Robert ) .
4- Người đàn ông thành thật yêu người đàn bà không phải đòi hỏi người đàn bà yêu mình, mà chỉ muốn sao cho mình yêu được người đàn bà ấy thôi . (André Roussin ) .
5- Mỗi người đàn ông là cuốn sách nếu ta biết đọc nó (William Ellery Channing ) .
6- Kể cũng lạ cho đàn ông , họ rất rộng lượng với đàn bà làm họ tiêu tài sản, nhưng lại rất khó tính đối với người đàn bà mang tiền bạc đến cho họ (Maurice Donnnay) .
7- Đối với người đàn ông, tha thứ điều gì cũng được, nhưng lãng quên thì chẳng bao giờ (E Augier ) .
8-Đàn ông thích biểu dương trước người đàn bà đẹp, và chấp nhận thua thiệt trong bóng tối (Auguste)
9-Tình yêu của các chàng trai ko nằm ở trái tim, mà ở đôi mắt .(Shakespeare ).
10- Miệng lưỡi của tình yêu nằm ở trong mắt chàng . (Ph Flecher )
11- Đứa con trai nào lúc còn bé thương mẹ nhiều nhất, khi lớn lên thương vợ nhiều nhất (Vincent De Paul ) .
12-Người đàn ông đẹp thì dễ coi ,mà người thông minh thì dễ sống . (X....)
13-Lúc mới gặp nhau , người đàn ông nào nói chuyện thật ngọt ngào, thì trong tương lai khi sống chung, người đàn ông ấy là người khó nhất ( De stael).
14-Người đàn ông nào ngoài xã hội hung hăng nhất, lại là kẻ nhút nhát trong gia đình với vợ (Jean Paul Sarter) .
15-Nhược điểm duy nhất của đàn ông là thích nói ngọt và sợ
nước mắt (Vacherot) .
16- đàn ông hung dữ với ai cũng được trừ vợ ra (Alfred De Mutsset) .
17- Muốn chinh phục 1 hung tướng, bạn chỉ cần lấy được lòng bà vợ ông ta (Mark Twain)
18- Trong phòng kín, người đàn ông nào cũng dễ cả .( Milton )
19-Trong tình yêu, câu nói mà người đàn ông thích nhất là "anh yêu em" ,nhưng cũng chính câu nói ấy người đàn bà giết người đàn ông 1 cách hữu hiệu nhất . (Publius Mimus)
20-Người đàn ông nào yêu nhiều nhất là người đàn ông đó chết sớm nhất .(Thomas Ingelend)
21-Đừng ca ngợi đàn ông vì họ đẹp, mà cũng đừng khinh họ vì xấu trai .(thánh kinh)
22-Trong tình yêu , chiến thắng của đàn ông là chạy trốn . (Napoleon)
23-Sự lầm lẫn to lớn nhất của bọn đàn ông chúng ta ko phải ở chỗ tưởng rằng đàn bà họ yêu chúng ta,mà ở chỗ ta tưởng rằng ta yêu họ .(Sacha Guitry)
24-Ta có thể hoài nghi tình yêu của 1 người đàn ông nào nói với ta "tôi yêu em" ,nhưng ta có thể tin được tình yêu của người đàn ông làm đủ mọi cách để giấu với ta là họ yêu ta. (Georges Feydeau)
25-Tôi thích 1 người đàn ông không tiền, hơn là có tiền mà ko có đàn ông .(Themistocle)
26- Những sự yếu hèn của người đàn ông đã làm nên sức mạnh cho người đàn bà .(Voltaire)
27-Đàn ông yêu ai thì y như gặp tai nạn, chẳng hạn như vấp ngã trên cầu thang .(Robert southey)
28-Người đàn ông có 2 sở thích :thú phiêu lưu và sự nguy hiểm. Bởi vậy đàn ông rất thích tình yêu, vì tình yêu là 1 trò chơi hết sức nguy hiểm .(Công tước De Richilieu)
29-Nhà ngoại giao là người đàn ông luôn luôn nhớ ngày sinh nhật của phụ nữ, nhưng chẳng bao giờ nhớ tuổi của nàng .(Robert Frost)
30-Có thể đánh lừa đàn ông vào đam mê, nhưng phải có đủ lý lẽ mới có thể đưa họ đến sự thật .(John Dryen)
31-Điều làm cho người đàn ông bị bỏ rơi đau khổ là họ luôn tưởng gặp lại được ngoài đường phố người đàn bà đã xa họ vì lẽ họ luôn nhìn thấy 1 hình bóng , 1 dáng đi hay 1 gương mặt rất giống người mà họ yêu .(Marcel Achard)
32-Người đàn ông ít xấu hổ về những tội ác của họ bằng những sự yếu đuối và cái hư vinh của họ . (jean De La Bruyere)
33-Người đàn ông khởi sự bằng tình yêu,kết thúc bằng tham vọng, và thương chỉ cảm thấy thật bình thản khi họ chết (Jean De La Bruyere) .
                                                            (Kim Chi sưu tầm)
 

  Nhân ngày Phụ nữ,mời Quý Cụ đọc lại bài thơ.Nhiều cụ đã đọc rồi,đọc lại chán như ăn cơm nếp...nhưng cơm vẫn cứ ăn......
BÀI THƠ VỀ VỢ
Vợ là quả ớt chín cây
Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
Vợ là một đoá hoa hồng 
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.
Vợ là nắng gắt mưa sa
Vợ là giông tố phong ba bão bùng..
Nhiều người nhờ Vợ lên Ông 
Nhiều người vì Vợ mất không cơ đồ
Vợ là cả những vần thơ
Vợ là cả những giấc mơ vơi đầy
Vợ là một chất men say
Là nước hoa ngoại làm ngây ngất lòng
Vợ là một áng mây hồng 
Vợ là hoa hậu để chồng mê say..
Vợ là khối óc bàn tay
Vợ là bác sĩ tháng ngày chăm ta
Vợ là nụ, Vợ là hoa
Vợ là chồi biếc, Vợ là mùa xuân..
Vợ là tín dụng nhân dân
Vợ là kế toán giải ngân trong nhà
Vợ là biển rộng bao la
Vợ là hương lúa đậm đà tình quê
Vợ là gió mát trưa hè
Vợ là hơi ấm thổi về đêm đông.
Vợ là chỗ dựa cho chồng
Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?
Khoan khoan hãy nghĩ lại đi
Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.
Việc nhà vợ có công đầu
Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.
Vợ là máy giặt trong nhà
Vợ là Cát-sét, Vợ là Tivi.
Nhiều đêm Vợ hát Chồng nghe
Lời ru xưa lại vọng về trong ta.
Vợ là làn điệu dân ca.
Vợ là bà chủ, vợ là nhân viên
Vợ là cái máy đếm tiền
Vợ là "Nội lực" làm nên cơ đồ
Vợ là thủ quỹ, thủ kho
Vợ là hạnh phúc ấm no trong nhà.
Vợ là vũ trụ bao la
Nhiều điều bí ẩn mà ta chưa tường.
Khi nào giận, lúc nào thương.
Sớm mưa, chiều nắng ai lường được đâu.
Vợ là một khúc sông sâu
Vợ như là cả một bầu trời xanh
Vợ là khúc nhạc tâm tình
Vợ là cây trúc bên đình làm duyên
Vợ là cô Tấm, thảo hiền.
Vợ là cô Cám, hám tiền ham chơi.
Vợ là con Phật, cháu Trời,
Rẽ mây rơi xuống làm người trần gian.
Vợ là....
(Để cậu Xuân viết tiếp bài này)
Vợ là năm tháng gian nan
Bây giờ đã khuất đi tan mộng đời
Vợ  là giọt nắng gọi mời
Cho ta nhớ mãi một đời chẳng quên
Vợ là năm tháng triền miên
Thương chồng không quản bên hiên dãi dầu
Vợ là như một nhịp cầu
Nối dòng nội ngoại mong câu yên bình
Vợ là năm tháng chung tình
Thương chồng con mãi một mình cưu mang
Vợ là bến cũ thênh thang
Dòng sông nước chảy ngân vang mái chèo
Vợ là ngày tháng cheo leo
Con đường gạch đó đi theo một đời
Vợ là ngày tháng không rời
Quanh năm buôn bán nửa đời ven sông
Vợ là những ngóng cùng trông
Tìm về kỷ niệm mênh mông xa vời
Vợ là tiếng hát gợi mời
Cho ta nhớ mãi một đời chẳng quên
Vợ là giấc mộng cô miên
Ôm tròn tuổi nhớ thần tiên trong đời
Sáng nay ngửa mặt lên trời
Nguyện xin ơn phúc cho người ta thương
Sớm hôm lòng những vấn vương
Ta ôm kỷ niệm trầm hương gọi về
Nắng mưa xin vẹn câu thề
Tình xưa nghĩa cũ không hề đổi thay
Bài thơ viết vội hôm nay
Gởi tặng hai cháu tháng ngày thủy chung…
                                             (Nguyễn Văn Xuân)
  GIẦU & NGHÈO
Vì của cải không bền lâu muôn thuở và danh vọng chẳng lưu truyền muôn kiếp (Cn. 27:24).
1.     Sự Chúc Phúc
          Sự giầu có được coi như là dấu chỉ sự chúc phúc của Thiên Chúa. Ngày xưa khi tổ phụ Abraham đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, ông đã rời quê cha đất tổ đi đến miền đất mà Chúa hứa ban. Abraham bỏ mọi sự sau lưng và tiến bước trong niềm tin tuyết đối. Chúa đã ban cho ông người con duy nhất là Isaác. Isaác đã trở nên cha của một dân tộc vĩ đại. Lời Chúa đã hứa với cha già Abraham được tỏ hiện nơi người con và dòng dõi. Ông Isaác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần. Chúa chúc phúc cho ông và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể (Stk. 26:12-13).Khi Chúa ban phát, Chúa rộng tay ban một cách dồi dào và tràn đầy chan chứa.
Ai có thể làm trọng tài để phân biệt giầu hay nghèo. Có bao nhiêu của cải tiền bạc mới được gọi là giầu có và thiếu bao nhiêu thì trờ thành nghèo khó? Trên đời có người giầu và có kẻ nghèo nhưng mức độ hay ranh giới giữa giầu và nghèo không thể xác định. Sự xác định giầu nghèo tùy thuộc nhiều yếu tố nội tâm . Vì chúng ta không thể chỉ định giá sự giầu nghèo qua con số của cải và tiền bạc. Con người gồm cả hồn và xác. Con người còn có nhiều những phẩm chất giá trị lớn lao hơn là của cải vật chất. Kẻ giàu người nghèo gặp nhau ở điểm này: cả hai đều được Chúa tạo dựng (Cn.22:2). Có nhiều sự giầu có khác như giầu lòng nhân hậu, giầu sự quảng đại, giầu nhân nghĩa, giầu tình cảm, giầu bác ái, giầu sự hiểu biết, giầu lòng thương xót và giầu tình người.
2.     Niềm Vui
         Vì không có ranh giới giữa người giầu và người nghèo, nên chúng ta cảm thấy được an ủi rằng nhìn lên chúng ta không bằng ai, nhưng nhìn xuống còn hơn nhiều người. Sự giầu nghèo không có làn ranh để xác định. Chúng ta có thể giầu hơn người này ở điểm này nhưng lại thua kém người khác ở điểm kia. Mỗi người tự vun xới cho mình một khía cạnh sống để làm giầu. Có người giầu về tiền bạc và của cải vật chất. Có người giầu vì có đông con nhiều cháu. Giầu có niềm vui và hạnh phúc mới là điều đáng qúy. Bởi thế người ta mới nói rằng có nhiều tiền, nhưng chưa chắc đã mua được hạnh phúc và sự bình an. Chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng, cũng như một khoảng trống cần được lấp đầy. Giống như những chiếc bình chứa, có bình to bình nhỏ, Chúa ban cho mọi bình đều đầy tràn. Niềm vui là được tràn đầy ân sủng.
Trong cuộc sống, nhiều người chỉ cần có công ăn việc làm với lương tối thiểu là thấy vui. Có người làm công một ngày đựợc 50 đô-la là cảm thấy đủ. Có người làm một giờ được 50 đô thấy là vui lắm rồi. Còn có những người làm một phút được 50 đô, nhưng vẫn chưa thấy thỏa mãn. Sự giầu có của cải tiền bạc tùy theo thái độ của mỗi người. Nếu chúng ta đặt tiền bạc lên làm ông chủ, thì ông chủ này sẽ đòi hỏi vô tận. Người xấu bụng chạy theo tiền của, đâu biết rằng cảnh nghèo sắp ập đến bên mình (Cn.28:22). Có rồi muốn có thêm, thêm rồi muốn có nữa và cứ thế tiền bạc sẽ có chỗ đứng vững vàng chi phối mọi sự trong đời sống. Thực sự người có nhiều tiền bạc thì họ sẽ có nhiều cơ hội để phục vụ và cống hiến mưu ích cho xã hội. Chúng ta biết rằng dùng tiền bạc chúng ta có thể mua được mọi thứ, trừ hạnh phúc và tiền bạc có thể mua mọi thứ vé đi mọi nơi, trừ thiên đàng.
3.     Sự Quảng Đại
         Hoa Kỳ được tiếng là quốc gia văn minh giầu có. Chúng ta biết rằng bất cứ khi có nước nào trên thế giới bị thiên tai tàn phá, thì không bao giờ vắng mặt sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Nhà nước có thể tiêu hàng triệu đô là để cứu trợ các nạn nhân gặp hoạn nạn ngay lập tức. Có nhiều người lầm nghĩ rằng, nước Hoa Kỳ giầu có thì mọi người dân cũng sống sung túc và dư giả. Thực tế, bộ mặt bên ngoài và nhìn chung kinh tế thị trường thì đúng, nhưng đi vào cuộc sống cụ thể của người dân Hoa Kỳ thì còn nhiều vấn đề ứ đọng và khó khăn. Không xa nơi chốn phù hoa đô thị tại Mahattan, Nữu Ước, ngày bên kia gầm cầu tại khu South Bronx và Harlem có biết bao người sống chui rúc trong những thùng giấy, tấm bạt che mưa nắng và xin ăn từng ngày. Trước đây, tôi có dịp đi phân phát thức ăn cho những người không nhà, không cửa ở nơi đó. Thường là sau 9 hay 10 giờ tối, chúng tôi đi vào những khu ổ chuột này mới thấy bề trái của xã hội. Cuộc sống con người còn nhiều bức xúc và lo lắng phải đối diện.
Nhà nước có nhiều công ty số vốn lên hàng tỷ đô la và cũng có nhiều đại gia số cổ phần cũng tính đến tiền tỷ. Chúng ta xếp họ vào những người giầu có nhất trong nước. Họ có thể tiêu vài chục ngàn cho một đêm trong khách sạn hoặc tổ chức một đám cưới vài triệu đô la.  Thánh Vịnh lại nhắc nhở: Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình cho người khác (Tv. 49:11). Nhưng rồi nhìn xuống, ôi kìa, có biết bao nhiêu người xếp hàng từ sáng đến chiều để xin tiền an sinh xã hội, xin tiền trợ cấp và xin tiền thực phẩm. Chúng ta thấy những cơ sở cho người không gia cư nhan nhản khắp nơi. Có biết bao nhiêu người không nhà không cửa sống dưới gầm cầu và lang thang ngoài đường để chờ một khúc bánh mì bố thí. Chiều chiều gần khu tôi ở, có rất nhiều người xếp hàng dọc theo đường chờ xe phát thức ăn của các nhóm từ thiện của nhà thờ phân phát thực phẩm.
4.     Giầu Có
           Tham quan thành phố Nữu Ước tráng lệ, đèn đêm không bao giờ tắt. Như khu phố Times Square, hai mươi bốn giờ đèn điện nhấp nháy sáng trưng, các ngôi nhà cao tầng trang hoàng lộng lẫy, màn hình lớn quảng cáo, người đi kẻ lại tấp nập, xe cộ dồn dập đưa khách, các du khách không ngừng nhấp nháy máy chụp hình. Bề ngoài thật giầu sang phú quý và sang trọng. Nữu Ước được mệnh danh là thành phố thương mại thế giới. Có trung tâm dịch vụ mua bán cổ phần (Wall Street). Có những đại lộ rộng mở cho khách du lịch tham quan và mua sắm. Những khách sạn đầy đủ tiện nghi và mắc tiền. Những nhà hàng ăn đáp ứng cho mọi khẩu vị của khách bốn phương. Những nhà hát, nhà kịch nghệ, các cửa hàng trưng bày các kiểu thời trang tân thời nhất đều xuất hiện tại khu đô thị này. Đâu ai tin rằng thành phố có đầy dẫy những người nghèo. Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp (Tv. 49:12)
Ở đời nhiều khi người ta đối xử với nhau dựa vào giá trị đồng tiền sở hữu. Có tiền thì mọi cửa đều mở. Người ta nói: Còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi. Chúng ta đã chứng kiến biết bao câu truyện thương tâm xảy ra hằng ngày xung quanh vấn đề tiền bạc. Thường những người tự tử là những người có của cải dư thừa, nhưng họ bị đói khát và tuyệt vọng vì những nhu cầu khác. Trong khi những người nghèo khổ, đói khát của ăn thể xác thì cố gắng bảo vệ sự sống mình. Như những anh chị em nghèo đói tại những nước nghèo, họ tranh thủ từng hạt cơm và từng hớp nước để sống còn. Sự giầu có không giải quyết được hết những vấn đề thuộc tâm linh của con người. Còn có những giá trị cao qúy hơn con người cần đáp ứng. Danh vọng, chức quyền hay bạc tiền không thể làm cho con người hạnh phúc thật.  Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn; thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết (Tv. 49:13).
5.     Nghèo Đói
          Chúng ta chưa nói đến những nước ở Phi Châu hay những nơi trại tạm cư ở Nam Phi. Chúng ta không thể tưởng tượng họ sống nghèo khổ tới mức nào. Những hình ảnh trên báo chí mới chỉ là một hình ảnh và một khoảnh khắc trong một hoàn cảnh mà thôi. Còn triệu triệu những cảnh đáng thương hơn nữa đứng sau bức màn, chẳng bao giờ chúng ta nhìn thấy hoặc cảm nhận được sự đói khổ cùng kiệt là thế nào. Những thân xác gầy tong teo lang thang ngoài phố chợ. Những dáng đi thất thểu chỉ có da bọc xương lầm lũi trong cánh đồng hoang nơi sa mạc khô cằn nứt nẻ. Một nhóm người thân trần đói rách dành nhau những bình nước, gói gạo và thực phẩm. Bát cơm trên tay ruồi muỗi bám bậu như những hạt đỗ chen lẫn hạt cơm. Thật là đói khổ. Không chỉ nghèo mà còn đói nữa. Chúa an ủi: Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em (Lc. 6:20).
Những người không có nhà để ở, không có nước để uống, nước để tắm giặt, không có đủ cơm và thực phẩm để hưởng dùng hằng ngày, họ được xếp vào hạng nghèo khổ và đói khát. Những người này không những đói cơm gạo mà còn đói khát tình yêu và đói khát sự công chính. Chúng ta biết có rất nhiều nguyên nhân đưa tới sự nghèo đói. Chẳng hạn tai họa xảy đến như thiên tai, nắng hạn, mất mùa và giặc giã. Người ta nói trời hại không bằng người hại. Vua Đavít xin hình phạt bởi tay Chúa hơn là rơi vào tay người đời: Vua Đavít nói với ông Gát: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Chúa còn hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người phàm! (2Sam. 24:14). Lòng nham hiểm và tham lam của con người vô đáy. Lòng tham lam quyền lực của con người đã gây tranh dành ảnh hưởng, gây chiến tranh tàn phá, cướp của giết người và gây đói khát cho nhiều người dân. Những người dân thấp cổ bé miệng vừa đói, vừa khát và vừa rét vừa run.
6.     Giầu Tình Chúa
        Trong đời thường, chúng ta cũng thường cầu chúc cho nhau làm ăn phát tài phát đạt, của cải đầy dư và may mắn trong công ăn việc làm. Ai cũng mong có của ăn, của để và cuộc sống dư giả. Đây cũng chính là sự thành công trên đường đời. Nhiều người đánh giá sự thành bại của cuộc đời qua gia sản mà chúng ta sở hữu. Nhưng rồi vàng bạc, của cải, châu báu cũng sẽ tan biến theo mây khói. Khi chúng ta ra đi khỏi thế gian, tiền bạc của cải đâu có tiễn đưa chúng ta ra nấm mồ. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng (Lc. 1:53).Bởi vậy khi còn đang lữ hành trên dương gian, chúng ta phải biết cách làm giầu cho tâm hồn. Chúa Giêsu sinh xuống trần trong nghèo khó. Sống một cuộc đời đơn sơ đạm bạc. Ngài ra rao giảng cùng với các môn đệ thuộc giới lao động. Ngài không có trụ sở để quy tụ dân chúng. Cuối đời, Ngài đã bị chống đối, bị xỉ nhục, bị vác thánh giá, bị đóng đinh và chết trần trụi trên thánh giá. Người ta hạ xác Chúa xuống và được chôn trong ngôi mồ tạm mượn. Chúa Giêsu không sở hữu của cải vật chất nhưng Chúa lại là chủ của tất cả. Chúng ta muốn xin sự gì, Chúa cũng ban cho. Chúa ban cho chúng ta dồi dào hơn lòng chúng ta mong ước. Vì Chúa giầu lòng nhân hậu, đầy tình thương và giầu lòng thương xót. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương (Tv. 145:8).
7.     Giầu Có Tấm Lòng
        Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến sự giầu có của cải sẽ cản bước con người tìm kiếm nước trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa (Mt. 19:24).Chúa chúc phúc cho sự sung túc cuộc sống, nhưng Chúa luôn nhắc nhở chúng ta phải biết dùng tiền của thế gian để mua nước trời. Tiền bạc của cải là phương tiện tốt trợ giúp và phục vụ con người. Bởi thế con người không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Tiền bạc chỉ là một tên đầy tớ hữu hiệu. Người chủ nhân phải khôn ngoan để biết dùng của cải vật chất sinh lợi cho cuộc sống mai hậu. Chúng ta biết của cải tự nó không tốt và cũng không xấu.  Nếu chúng ta biết sử dụng của cải đời này đúng nơi đúng lúc, nó sẽ giúp chúng ta tìm được nguồn vui và hạnh phúc thật.
Hãy nhìn gương các thánh như thánh Phanxicô thành Asissi, ngài đã rời bỏ mọi sự, bán gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói. Rồi chính ngài lại đi khất thực và sống một cuộc đời đơn sơ phó thác. Ngài đã trở nên giầu có trước mặt Thiên Chúa. Và nhìn mẹ Têrêxa thành Calcutta , đến nước Ấn Độ chỉ có mấy chục xu trong túi. Cả đời mẹ đã dâng hiến phục vụ kẻ nghèo hèn, người cô thân cô thế, kẻ mồ côi gúa bụa và giúp đỡ người hấp hối bên vệ đường. Sau khi mãn phần dưới thế, mẹ đã để lại biết bao cơ sở từ thiện, nhà thương, nhà dòng , các cơ sở bác ái và lòng cảm kích yêu thương của mọi người. Chỉ với bàn tay trắng và vô sản nhưng mẹ đã trở thành người giầu có trước mặt người đời và trước nhan Thiên Chúa. Mẹ đã có đầy tình yêu Chúa, giầu lòng nhân nghĩa, giầu sự bác ái và giầu lòng thương xót.
8.     Giầu Có Thật
         Ai cũng có thể trở nên giầu có trước mặt Thiên Chúa và loài người. Đã có biết bao nhiêu những tâm hồn giầu có đã hiến thân phục vụ nhân loại. Chúng ta không thể đếm hết con số những người giầu có tấm lòng nhân hậu, giầu tình thương yêu bác ái và giầu nhân nghĩa. Nhiều vị đã dám hy sinh cả đời phục vụ người khác mà không cần thu góp cho bản thân mình. Có nhiều quý tu sĩ nam nữ, quý thiện nguyện viên và quý ân nhân đã dám xả thân cứu độ chúng nhân. Trong tay họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng có một tâm hồn bao dung giầu có. Họ dám cho đi, cho đi thời giờ, khả năng và có khi cho đi cả cuộc đời. Họ là những người giầu có nhất trên thế giới. Sách Châm Ngôn nhắn nhủ: Người trung tín được đầy dư phúc lành, kẻ muốn mau giàu sẽ không thoát khỏi hình phạt (Cn. 28:20).
Chúng ta cũng có thể trở nên giầu có. Tuy dù tiền bạc hay của cải của chúng ta thì rất giới hạn nhưng trái tim yêu thương thì không có biên giới. Chúng ta có thể làm giầu bằng chính vốn liếng mà Chúa đã ban cho chúng ta. Hình ảnh bà góa nghèo làm việc bái ái với vài xu đã được Chúa khen. Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết (Lc. 21:2-3).Lòng nhân nghĩa, sự cảm thương, tình yêu bác ái và tâm hồn rộng lượng quảng đại đã có sẵn trong lòng của chúng ta. Chúng ta chỉ việc mở khóa cửa tâm hồn đón nhận và trao ban, chúng ta sẽ trở nên giầu có. Sự giầu có này sẽ không bị ai tước đi mất.
Như lời kết, niềm an vui và hạnh phúc thật sẽ không hoàn toàn tùy thuộc vào sự giầu có của cải trần gian. Có nhiều người giầu sang phú quý nhưng tâm hồn họ lại trống rỗng, cô đơn và đau khổ. Chìa khóa của sự bình an và niềm vui chính là sự giầu có trong tâm hồn. Giầu có của cải nhưng sống trong tinh thần nghèo khó. Ngày sau hết khi Chúa phán xét, Chúa không xem xét là chúng ta có bao nhiêu của cải ở trần gian, nhưng Chúa sẽ xét đoán chúng ta về lòng nhân nghĩa và bái ái đối với tha nhân. Chúng ta hãy cố gắng nên giầu có trước mặt Chúa, chúng ta sẽ được thưởng.  Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa (Mt. 25:34).
                                              Lm. Giuse Trần Việt Hùng

                                                              Bronx , New York      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]